HÀNH TRÌNH SĂN TÌM RẮN HỔ MÂY KHỔNG LỒ, NẶNG HÀNG TẤN Ở MIỀN TÂY - phần 2 - hết
(Chuyện chép theo lời kể, kể sao chép vậy, đọc xong đừng bảo tui phét nha. Phét nhân vật kiện chết).
Mặc dù tên vườn quốc gia là U Minh Hạ, nhưng trung tâm của vườn và trụ sở ban quản lý lại ở huyện Trần Văn Thời. Xưa kia, rừng U Minh Hạ rộng mênh mông, đến sát nách TP. Cà Mau. Nhưng quá trình di dân, khai phá, rồi hàng loạt vụ cháy rừng diễn ra trong suốt mấy chục năm, mà rừng tràm nguyên sinh co lại, chỉ còn tập trung nhiều nhất ở huyện Trần Văn Thời. Hiện tại, theo con số mới nhất, rừng tràm U Minh chỉ còn 55 ngàn héc-ta. Trong đó, quy hoạch Vườn quốc gia U Minh Hạ rộng hơn 8.200 héc ta, nằm ở huyện Trần Văn Thời. Trong số diện tích đó, thì vùng bảo vệ nghiêm ngặt chỉ còn 1.600 héc-ta, có tên là rừng Vồ Dơi, thuộc xã Trần Hợi. Rừng Vồ Dơi là rừng tràm nguyên sinh ngập nước, vẫn còn tồn tại đầy đủ các loài động thực vật đặt trưng của rừng tràm, gồm heo rừng, nai, tê tê, khỉ, rắn chúa, rắn hổ mây, trăn đất, trăn hoa… Chính vì thế, những câu chuyện về rắn hổ mây khổng lồ ở địa bàn xã Trần Hợi vẫn là vấn đề mới mẻ, thời sự nhất.
Đường về hòn Đá Bạc, một bên là con sông đào thẳng tít tắp, một bên là đại ngàn U Minh với những thân tràm thẳng tắp cao ngất nghểu. Thi thoảng mới thấy một nếp nhà tạm, lợp gianh như chuồng gà, chuồng vịt ẩn hiện trong rừng. Mấy ngày lang thang ở rừng U Minh Hạ, đặc biệt ở khu vực xã Trần Hợi, tôi thu lượm được vô số chuyện về rắn hổ mây khổng lồ. Những câu chuyện về rắn hổ mây mang hơi hướng chuyện bác Ba Phi. Từ những người nông dân chân lấm tay bùn, đến những cụ già tóc bạc cũng đều kể vanh vách.
Ngoài rắn hổ mây, thì Vườn quốc gia U Minh Hạ cũng là vương quốc của lươn và cá lóc. Vùng rừng ngập nước được bảo vệ nghiêm ngặt, cấm người ra vào này là nơi lúc nhúc cá, lươn. Những con lươn to bằng cổ tay nổi đầu thở bóp bép trên mặt nước, với cái thân lõng thõng trong làn nước trong. Cá lóc nhiều vô kể. Đặc sản của vùng này là cá lóc nướng trui. Đồng chí kiểm lâm tóm con nhái vào lưỡi câu gắn cục chì nhỏ, quăng ở con rạch trong rừng, kéo con nhái nhảy chòm chọp trên mặt nước một lát, thì giật lên mấy chú cá lóc giãy đành đạch. Cá lóc nướng trui rất đơn giản. Cá lóc sống nguyên, được xuyên vào cành tre, rồi nướng trên lửa rơm. Hoặc chỉ việc trải rơm, xếp cá lên, rồi châm lửa như thui chó. Cá lóc chín, nhỏ mỡ cháy xèo xèo, gạt lớp tro, đập tay bồm bộp cho sạch. Thế là, lá chuối trải ra, tay không gỡ miếng cá nóng bỏng, chấm muối ớt. Chỉ thế thôi, mà cũng tốn mấy xị rượu. Rượu tưng bừng rồi, những câu chuyện miên man về rắn chẳng bao giờ ngớt.
Ông Mười Nhớt, hiện 80 tuổi, thợ săn rắn kỳ cựu ở vùng U Minh là người gặp rắn khổng lồ rất nhiều. Nhà ông ở khu vực Cây 5. Cả thời trai trẻ ngang dọc trong rừng, rồi lại tiếp xúc với những bệnh nhân bị rắn cắn, trong đó có nhiều bệnh nhân bị rắn hổ mây tấn công, nên ông nắm được vô số chuyện về rắn hổ mây. Anh em kiểm lâm, kể cả lãnh đạo Vườn quốc gia, khi tìm hiểu về rắn hổ mây, cũng phải tìm ông để hỏi. Ông chính là kho chuyện về loài rắn to khủng khiếp ở vùng tràm ngập nước này. Theo ông Mười Nhớt, thì người kể chuyện về rắn hổ mây hay nhất chính là bác Ba Phi, một tay nói dóc nổi tiếng xứ Nam kỳ lục tỉnh. Bác Ba Phi quê ở xã Khánh Hải, tận ven biển, nơi rừng tràm trùm kín. Những câu chuyện về rắn hổ mây qua miệng bác Ba Phi đã trở nên nổi tiếng và hầu hết dân cư vùng rừng rú U Minh đều thuộc nằm lòng.
Chuyện rằng, ngày xưa, trong rừng U Minh Hạ, ở khu Vồ Dơi, là nơi ẩn náu của những con rắn hổ mây khổng lồ. Không ai biết những con rắn này sống ở đây từ thời nào, nhưng từ mấy trăm năm trước, khi cha ông đến vùng đất này, đã thấy chúng quần cư ở đây. Loài rắn này tuy lớn nhưng lại hiền lành. Chúng và con người sống hòa bình với nhau. Đất của người người sống, của rắn rắn ở, không xâm phạm đến nhau. Bọn rắn săn mồi cũng nhàn nhã. Chúng chỉ việc dựng thân mình qua ngọn cây, há miệng toang hoác. Đàn chim tưởng cây lớn, chui vào miệng đậu, làm tổ, thế là bị nuốt chửng. Những khi no mồi, rắn nằm ngủ trong rừng, mấy bác thợ săn tò mò lén tới ôm thử, thấy chu vi vòng bụng của chúng hết ba vòng tay người lớn.
Chẳng rõ có ai nhìn thấy rắn khổng lồ hổ mây tát kênh bắt cá hay không, nhưng chuyện rắn hổ mây là cao thủ bắt cá thì ai cũng kể vanh vách. Chuyện rằng, vào mùa khô, nước ở U Minh rút dần, cá tụ vào những vũng nước trũng ở các con kênh. Bọn rắn khổng lồ bò đi tìm những đoạn kênh lúc nhúc cá. Lặn xuống vũng nước mò từng con mà ăn thì không biết bao giờ mới đủ no, nên nó quấn đầu và đuôi vào thân cây, phần thân thả võng xuống vũng nước. Bụng nó thóp lại như cái gầu, rồi thân rắn cứ thế đung đưa, tát một lúc thì cạn cả mương, tha hồ ăn cá.
Những thợ rắn đụng mặt rắn khổng lồ ở U Minh Hạ
Ông Mười Nhớt năm nay tròn 80 tuổi, là bậc trưởng lão ở đại ngàn Vồ Dơi, hiểu biết sâu sắc về loài rắn khổng lồ. Ngay cả cán bộ kiểm lâm, các nhà khoa học, nghiên cứu sinh về U Minh tìm hiểu về hệ động thực vật, cũng đều tìm đến ông Mười Nhớt để thu thập thông tin. Vốn có kinh nghiệm ngót 50 năm là thợ săn rắn, nên không giống loài nhà rắn nào ở U Minh mà ông không biết. Không những thế, ông còn là thầy chữa rắn độc cắn giỏi nổi tiếng vùng U Minh, nên càng thông hiểu về rắn.
Đem những câu chuyện bác Ba Phi kể về rắn tới gặp ông Mười Nhớt, nhưng ông Mười Nhớt chẳng hề cười. Ông bảo, ông rất buồn khi người đời nghĩ rằng chuyện bác Ba Phi kể về rắn hổ mây là bịa tạc, tiếu lâm. Theo ông, những chuyện bác Ba Phi kể đều có thật, chỉ có điều, bác kể phóng đại lên chút cho vui mà thôi. Rắn khổng lồ ở U Minh là loài có thật 100%.
Xưa kia, rắn khổng lồ xuất hiện ở hầu hết các vùng rừng thuộc U Minh Hạ và U Minh Thượng. Ông Mười Nhớt gặp chúng ở nhiền nơi, tuy nhiên, vùng rừng rậm rạp Vồ Dơi chính là vương quốc của loài rắn khổng lồ này, nên ông gặp chúng thường xuyên. Rắn hổ mây không to đến mức 3 người ôm, nhưng nếu một vòng tay người ôm, thì không hết. Theo ông Mười Nhớt, loài rắn hổ mây thường đi thành cặp. Con đực có vòng thân nhỏ hơn con cái một chút, nhưng lại dài hơn và đen hơn. Khi cặp rắn này phối hợp săn mồi, thì cả cánh rừng ào ào như cuồng phong dữ dội, khiến tất cả các loài vật trong rừng tan tác, náo loạn.
Ông Mười Nhớt cho rằng, sở dĩ con người ít chạm mặt rắn khổng lồ, vì loài rắn này rất sợ con người. Dù chúng lớn như vậy, dễ dàng nuốt chửng con người, nhưng hễ thấy con người là chúng nằm im, hoặc chạy trốn. Bình thường, chúng thường ngóc đầu lên tận ngọn cây tràm để quan sát, hễ thấy bóng dáng con người là chúng chuồn êm. Con người chỉ có thể gặp chúng khi chúng đang nuốt mồi, hoặc ăn no nằm ngủ.
Lần cuối cùng ông Mười Nhớt gặp hổ mây khổng lồ là năm 1985, ở khu Vồ Dơi. Hôm đó thời tiết oi bức, nắng như đổ lửa, ông Mười Nhớt xách đồ nghề vào rừng kiếm rắn về bán. Trời nóng, bọn rắn mệt nằm trú trong bóng râm, nên bắt chúng khá dễ dàng. Ông Mười Nhớt lững thững đi men theo con rạch trữ nước cản lửa chống cháy để vào sâu trong rừng. Con mương đào dẫn đến tận lõi rừng Vồ Dơi. Hết con mương thì đến con đường mòn mà người đi rừng tạo thành. Từ xa, ông Mười Nhớt thấy một khúc cây to như cột đình vắt ngang đường. Mấy hôm trước vừa đi qua con đường này, không thấy khúc cây nào cả, mà giờ lại có khúc cây to tướng vắt ngang đường, nên ông Mười Nhớt lấy làm lạ lắm. Tiến đến gần, ông Mười Nhớt rụng rời tay chân, mặt cắt không còn giọt máu khi phát hiện khúc cây có vảy lấp lánh, lại lên màu hơi vàng mốc. Là thợ săn rắn, nên ông chắc chắn rằng đã gặp hổ mây khổng lồ. Biết rằng con hổ mây này đang phơi nắng ngủ say, nên ông Mười Nhớt lấy lại tinh thần. Tự dưng trí tò mò nổi dậy, nên ông nhẹ nhàng tìm hiểu về kích cỡ con rắn này. Ông không đủ can đảm thử ôm vòng tay vào thân nó như các thợ săn trong truyện bác Ba Phi, nhưng ông nhẹ nhàng lần về phía đuôi nó, xem dài cỡ nào. Lần về phía đuôi con rắn thấy an toàn, ông tiếp tục vòng lên phía đầu con rắn. Nhìn cái đầu nó nằm ngủ, mà bành ra bằng cái mẹt, ông Mười Nhớt lại lần nữa dựng tóc gáy. Sợ con rắn tỉnh dậy, táp một cái thì ông chui tọt vào bụng nó, nên ông không dám lại sát đầu con rắn. Tuy vậy, qua quan sát, ông Mười Nhớt cũng tính toán được chiều dài, vòng bụng của con rắn này. Theo đó, thân nó to cỡ một vòng tay người ôm, bằng cột đình và dài chừng 20m. Không rõ cân nặng của con rắn này thế nào, nhưng chắc chắn không dưới nửa tấn. Biết rằng, loài hổ mây thường đi theo cặp, theo đôi, sợ gặp con nữa, nên ông Mười Nhớt bỏ về thẳng, không dám vào khu vực đó bắt rắn nữa. Sau vụ chạm mặt rắn khổng lồ ấy, phải đến hơn tháng sau ông Mười Nhớt mới hoàn hồn, tiếp tục vào U Minh bắt rắn. Chỉ có điều ông tránh xa khu vực mà ông gặp con rắn khổng lồ nằm ngủ.
Ông Nguyễn Văn Thế, Giám đốc Vườn quốc gia U Minh Hạ cũng từng bỏ nhiều thời gian, công sức tìm hiểu về loài rắn hổ mây khổng lồ, mang nhiều hơi hướng huyền thoại ở U Minh. Ông đã gặp rất nhiều người chạm mặt loài rắn này. Ông Ba Hoàng, Mười Nhớt, Tư Nhớt, Hai Sanh, Ba Vinh, Hai Tây, Mười Ngọc… đều là những người nắm cả kho chuyện về rắn khổng lồ ở U Minh. Ông Thế cũng đã từng gặp trực tiếp và cho nhân viên gặp những nhân vật này để thu thập tư liệu về rắn hổ mây cùng các loài động vật hoang dã trong rừng U Minh và những nhân vật này đều khẳng định rắn hổ mây là loài có thật. Ông Thế hướng dẫn tôi tìm gặp ông Hai Tây, là thầy chữa rắn nổi tiếng, một võ sư danh bất hư truyền, lại có cả cuộc đời sống, chiến đấu trong đại ngàn U Minh, nên ông nắm rất rõ về rắn hổ mây.
Đi cắt qua con đường lầy lội vùng đệm Vườn quốc gia U Minh Hạ, thì chúng tôi tìm thấy nhà chị Nguyễn Thị Lê, còn gọi là Út Lê. Chị Lê bảo, ba chị vốn sống cùng vợ chồng chị, nhưng vừa rồi Nhà nước cấp cho ít tiền, lại được người con cả tài trợ, nên dựng nhà về ấp để sinh sống. Nhắc đến chuyện rắn hổ mây, chị Lê vừa lộ ánh mắt sợ hãi, vừa hào hứng. Theo chị, năm 1981, gia đình vỡ nợ, bị chủ nợ truy lùng gắt gao, nên ba má đưa chị trốn vào rừng U Minh. Khi đó, các anh, chị đều đã lấy vợ, lấy chồng ở riêng, còn mỗi Út Lê, mới 18 tuổi, chưa có chồng, nên phải theo ba má. Ba chị, ông Hai Tây thông thuộc rừng U Minh như lòng bàn tay, nên dắt hai mẹ con vào tận rừng Vồ Dơi, giờ là vùng lõi của vườn quốc gia để dựng nhà sàn sinh sống. Khu vực đó chỉ có rắn rết, khỉ, heo, chẳng có bóng người ra vào. Nơi đó rắn hổ mây nhiều, nên thợ săn rắn cũng hãi, không dám mò đến. Tất nhiên là các chủ nợ cũng chẳng biết đường nào mà tìm ông Hai Tây.
Sống giữa bầy rắn khổng lồ, nên mẹ con Út Lê chẳng dám ra khỏi nhà. Ông Hai Tây dắt tới 10 con chó săn, toàn con hung dữ vào rừng. Bầy chó lúc nào cũng luẩn quẩn quanh nhà để bảo vệ hai mẹ con Út Lê. Riêng ba chị thì chẳng sợ gì, chỉ đeo cây phát bên mình là đi ngang dọc trong rừng kiếm đồ ăn. Ngày đó, chỉ đi khỏi nhà vài chục mét, là bắt được đủ thứ đồ ăn. Ông Hai Tây bẫy được đủ các loại heo rừng, nai, hoẵng, chồn, cầy. Tê tê nhiều vô kể. Ông Hai Tây chỉ việc xua chó vào rừng, thấy chó kêu thì chỉ việc chạy đến tóm tê tê. Hễ gặp chó, tê tê liền chúi đầu đào hang. Khi nó còn đang mải miết đào bới, thì thợ săn thò tay vào hang, cầm đuôi nó kéo ra là tóm được. Tê tê nhiều đến nỗi ăn mãi phát sợ, nên ninh nhừ thịt tê tê cho lợn ăn.
Chị Út Lê kể: “Đàn chó săn hung dữ có tới 10 con, nhưng một năm sau thì chẳng còn con nào. Cứ nghe thấy tiếng ào ào như lốc cuốn ở rừng tràm, rồi tiếng chó ăng ẳng kêu, là y rằng hắn hổ mây khổng lồ bắt mất chó. Nhiều lần tui nhòm mắt qua khe cửa, thấy con hổ mây thân hơi vàng lao vun vút trên ngọn cây. Đến sát nhà tui, nó ngóc đầu cao đến ngọn tràm, bành mang, phùng má nhìn phát khiếp. Bọn chó săn nhà tui cũng không vừa, xông ra sủa inh ỏi. Thế nhưng, nó chỉ há miệng phóng đầu chộp xuống là đớp ngang lưng con chó. Nó nhấc con chó lên tận ngọn tràm, đong đưa một lát rồi nuốt chửng luôn”.
Chị Út Lê khẳng định rắn hổ mây là loài có thật và to lớn không tưởng tượng nổi. Sống chui lủi trong rừng Vồ Dơi 10 năm trời, chị nhìn thấy hổ mây cả trăm lần. Nhưng điều lạ lùng, mà đến giờ chị vẫn không hiểu nổi, là vì sao chúng không ăn thịt người. Nếu chúng muốn, chúng có thể xơi mẹ con chị bất cứ lúc nào. Để khẳng định hổ mây là loài có thật 100%, chị Út Lê đã không quản đường xa, dẫn tôi mười mấy cây số đi tìm ba chị, tức ông Út Tây.
Đoạn đường đến nhà ông Út Tây chừng 15km, mà chúng tôi đi xe máy mất ngót một giờ đồng hồ. Con đường nhỏ xíu, chỉ đủ một xe đi, cứ dài hun hút. Ông Hai Tây đã 93 tuổi mà vẫn khỏe mạnh, phong độ, minh mẫn. Ông vẫn hái thuốc cứu người, đặc biệt là những người bị rắn cắn. Ông khẳng định có bài thuốc cải tử hoàn sinh cho người trúng nọc rắn. Có nghĩa là, nếu ai bị rắn độc cắn, chết một lúc rồi, ông vẫn cứu được. Câu chuyện chữa rắn cắn của ông mang nhiều màu sắc liêu trai, kỳ bí.
Ở vùng U Minh này, nhắc đến ông Hai Tây, chẳng ai không biết. Riêng tên thật Nguyễn Văn Đã của ông, thì lại chẳng mấy ai hay. Sở dĩ người dân vùng U Minh gọi ông bằng nghệ danh đó, vì ông to lớn như Tây, lại nổi tiếng đánh Tây ở vùng U Minh này. Để khẳng định mình không bịa tạc về loài rắn hổ mây khổng lồ, ông Hai Tây lọ mọ vào phòng trong, lôi ra chiếc áo đính đầy huy chương. Chỉ tay vào chiếc áo trang trọng đó, ông nói một cách khảng khái: “Lấy danh dự của người lính cụ Hồ, tui khẳng định với nhà báo rằng, rắn hổ mây khổng lồ là có thiệt, chớ không phải chuyện dóc của bác Ba Phi. Rắn hổ mây là loài mà tui giáp mặt cả ngàn lần trong rừng U Minh rồi. Rừng Vồ Dầu chính là địa bàn tụ tập nhiều nhứt của hổ mây”.
Thời trẻ, ông Hai Tây ở nhà chăn trâu cho địa chủ. Năm 19 tuổi, ông có duyên gặp võ sư Trần Văn Anh ẩn tu trong đại ngàn U Minh. Vị võ sư này nhận ông Hai Tây làm đệ tử, truyền cho võ nghệ và những bài thuốc, đặc biệt là thuốc trị rắn cắn. Giỏi võ, nên ông Hai Tây đi lại hiên ngang trong rừng, chẳng sợ bất cứ con gì. Năm 1945, căm thù giặc dã giày xéo quê hương, nên ông Hai Tây tham gia bộ đội, theo những chí sĩ yêu nước hoạt động ở vùng U Minh. Khi đó, ông Hai Tây chiến đấu cùng ông Phạm Hùng. Thấy Hai Tây giỏi võ, nên ông Phạm Hùng phân công bảo vệ ông Phan Trọng Tuệ. Là cán bộ căn cứ U Minh Hạ, ngang dọc trong rừng, nên không góc rừng nào ở U Minh mà ông không nắm rõ. Đất nước Hòa Bình, ông làm cán bộ ở Ban Kinh tế mới tỉnh Minh Hải. Năm 1980 ông về hưu. Ông làm ăn riêng, nhưng vỡ nợ, nên lại tiếp tục trốn vào Vồ Dơi sống thêm chục năm nữa. Như vậy, tính ra, gần như cả cuộc đời ông gắn với rừng sâu U Minh Hạ. Vì thế, ông khẳng định rằng, ông là người chạm mặt rắn khổng lồ nhiều nhất và hiểu biết về loài rắn này cũng nhiều nhất.
Theo ông Hai Tây, không chỉ gặp rắn đi săn, gặp rắn khổng lồ đang ngủ, mà ông còn phát hiện ổ rắn khổng lồ và chính ông đã nhảy vào ổ rắn nằm chơi một lát. Hồi đó chừng năm 1960, ông mắc võng dưới rừng tràm ngủ trưa. Đang thiu thiu ngủ, bỗng tiếng khỉ ríu rít, náo loạn, rồi tiếng ào ào từ xa vọng lại. Đàn khỉ chạy nhảy, đu cây nháo nhác trên đầu, rồi tụ vào một chỗ. Con nào con nấy run lẩy bẩy, ánh mắt thất thần. Cặp hổ mây khổng lồ, thân dài tít hút vắt từ cây nọ sang cây kia, dồn đàn khỉ vào một chỗ. Hai con rắn khép vòng vây, đàn khỉ chẳng còn đường thoát. Hai con hổ mây miệng há hoác đớp khỉ. Đớp rồi, nó lại nhả ra. Những con khỉ tội nghiệp rớt xuống đất. Vừa bị cắn dập cơ thể lại bị nọc độc, nên giãy đành đạch, sùi bọt mép. Hai con rắn thi nhau đớp một lúc thì cả chục con khỉ rơi xuống như sung. Một số con nhảy xuống đất, mở đường máu tháo thân thì thoát.
Giết hại lũ khỉ rồi, hai con rắn khổng lồ mới thư thả nuốt từng con mồi. Ở hoàn cảnh đó, nhưng ông Hai Tây không hề sợ hãi. Súng đeo trên vai, dao phát lăm lăm trong tay, sẵn sàng chiến đấu. Tuy nhiên, cặp rắn này chỉ nhìn ông một lát, rồi bỏ đi. Trí tò mò nổi lên, ông Hai Tây lặng lẽ đi theo cặp rắn. Đi chừng hơn giờ đồng hồ, thì xuất hiện một ụ đất cao, với chằng chịt các loại dây leo, lá lẩu vây kín, trông như một đống rơm khổng lồ. Ụ đất ấy hõm xuống, nhẵn thín. Con rắn cái nằm khoanh tròn trong ổ, còn con đực vắt mình trên cây trông phát hãi. Khoảng 2 tiếng sau, cặp rắn này lại mò đi. Chờ chúng khuất dạng, ông Hai Tây men lại gần, nhảy vào ổ rắn. Cái ổ rắn ấy có đường kính lên đến 6m, nhẵn bóng. Khả năng cặp rắn này chuẩn bị sinh đẻ, nên mới làm ổ như vậy. Tuy nhiên, tháng sau, ông Hai Tây tìm đến ổ rắn này, thì không thấy rắn đâu, cỏ cây đã mọc kín. Sau này ông Hai Tây mới hiểu rằng, do ông nhảy vào ổ rắn, để lại hơi người, nên chúng bỏ ổ đi mất. Theo ông Hai Tây, bọn rắn hổ mây làm ổ ở nơi rất kín đáo, không có bàn chân con người, do đó, không phải ai cũng có cơ duyên thấy được ổ rắn. Ngoài ông Hai Tây, thì chỉ nghe nói có ông Tư Nhớt cũng từng được tận mắt ổ rắn hổ mây.
Những lần một mình ông gặp rắn hổ mây khổng lồ thì nhiều không đếm xuể, nhưng có một lần, không chỉ ông, mà cả trăm người được tận mắt loài rắn này. Ấy là năm 1983, rừng U Minh cháy khủng khiếp, ông cùng hàng ngàn người tham gia chữa cháy. Nhóm của ông gồm 200 người, cấp tốc phát cây, tạo khoảng cách để lửa không tiếp tục bén rộng. Khoảng trống chừng 15m đã được mở, khu vực cũng được tưới nước ướt đẫm, để lửa không bén qua. Đang trong quá trình mở đường thì từ phía rừng cháy, cặp rắn hổ mấy khổng lồ trườn qua khoảng trống phát quang, trốn vào khu rừng chưa cháy. Cả trăm người có mặt đều được tận mắt cặp rắn. Nhiều người tá hỏa tam tinh vứt dao chạy thục mạng, không dám đi cứu rừng nữa. Con to cỡ một vòng tay người lớn, con nhỏ thì bé hơn chút. Không ai biết nó dài bao nhiêu mét, vì thấy trườn mãi mà đuôi nó mới trôi qua khoảng trống. Hai con rắn vừa bò vừa thở khù khù. Tiếng khù khù vang xa, mãi sau mới biến mất. Theo ông Hai Tây, khả năng cặp rắn này chạy trốn lửa, mệt mỏi, nên mới mới bò chậm chạp và thở khù khù như thế, bởi hổ mây là loài cực kỳ mạnh mẽ, thường phóng ào ào trên ngọn tràm để săn mồi.
Câu chuyện rợn tóc gáy của cựu kiểm lâm
Cho dù có sưu tập đủ cả trăm câu chuyện rùng rợn về rắn khổng lồ, cho dù có cả ngàn người kể thao thao bất tuyệt về rắn hổ mây khổng lồ, mà không có được một tấm ảnh, một tiêu bản rắn khổng lồ, thì loài rắn này vẫn mang hơi hướng huyền thoại. Tuy nhiên, nếu chuyện về loài rắn thân to như cây thốt nốt già, đầu ngóc lên tận ngọn tràm, phóng ào ào như gió bão trên đọt cây được kể ra từ miệng của những cán bộ, kiểm lâm đáng kính, thì không phải chuyện tào lao, chuyện bác Ba Phi nữa. Trong số những cán bộ kiểm lâm đáng kính tận mắt hổ mây khổng lồ, có một nhân chứng sống là ông Chín Của, nguyên Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Cà Mau.
Ông Chín Của có cả cuộc đời làm kiểm lâm, gắn bó với rừng U Minh Hạ. Sau về TP. Cà Mau làm lãnh đạo ngành kiểm lâm, nhưng hàng ngày ông vẫn gắn bó thân thiết với đại ngàn tràm. Về hưu, ông bỏ lại căn nhà ở trung tâm thành phố, về lại U Minh Hạ dựng nhà, làm điền trang sống cuộc đời thanh nhã. Nhắc đến loài hổ mây trong chuyện bác Ba Phi, ông Chín Của to ra không hài lòng. Ông bảo, chuyện bác Ba Phi là chuyện dóc, chuyện hài, nhưng rắn hổ mây khổng lồ là loài có thật, chính mắt ông đã tận mắt, suýt chạm vào cái thân kinh hãi to bằng cây thốt nốt của nó.
Lần ấy, là cuối năm 2002, ông Chín Của lôi cán bộ kiểm lâm dưới quyền là Đỗ Thanh Hóa đi một vòng rừng đặc dụng Vồ Dơi để tuần tra. Khi đó, con đường tuần tra cắt ngang rừng Vồ Dơi vừa được mở, rộng tới 8m, để thuận tiện cho việc tuần tra, đi lại, xe bồn cứu cháy rừng kịp thời. Khi gần đến khu vực lõi rừng Vồ Dơi, nơi bầy khỉ hót náo loạn, chim kêu ríu ran, thì bỗng dưng kiểm lâm Hóa phanh xe suýt ngã nhào. Ông Chín Của mắng đổng: “Không biết thằng nào kéo cây chắn đường thế này. Rõ ràng chúng định ám hại kiểm lâm đây”.
Kiểm lâm Hóa dựng xe, cùng sếp tiến lại phía “thân cây” lẫn trong đám cỏ tính kéo ra lấy lối đi. Cách 5m, ông Chín Của la lớn: “Rắn hổ mây, rắn hổ mây!”. Dù làm kiểm lâm đã ngót 30 năm, đi dọc ngang đại ngàn U Minh Hạ, nhưng tuyệt nhiên ông Chín Của vẫn chưa có cơ duyên gặp được rắn hổ mây khổng lồ. Ông cũng như anh em, mới chỉ nghe những người đi rừng kể lại và tin đó là chuyện của bác Ba Phi. Nhưng giờ đây, trước mặt ông, rõ mồn một là con rắn hổ mây khổng lồ, to bằng cái gối ôm của người lớn. Là kiểm lâm bao năm, nên ông Chín Của chắc chắn nó không phải là trăn. Thân nó hơi vàng mốc, đúng như lời những người đi rừng tận mắt kể lại. Khi đó, mặt cắt không còn giọt máu, đôi chân ông ríu lại. Kiểm lâm Hóa dắt xe quay đầu, luống cuống thế nào ngã chổng vó. Thấy động, con rắn ngóc đầu lên lưng chừng thân tràm, đầu bành to bằng cái mẹt. Nó mở to đôi mắt vàng khè ngó hai người, rồi trườn qua đường, ve vẩy cái đuôi, mất hút trong rừng thẳm. Con đường rộng tới 8m, mà nó trườn một lúc mới thấy đuôi. Là người có kinh nghiệm tính toán về loài bò sát, nên ông Chín Của ước tính con rắn khổng lồ ấy dài chừng 20m, nặng vài trăm kg. Theo ông Chín Của, nếu hôm đó không phanh xe kịp, đâm vào con rắn, nó nổi giận lôi đình táp một cái thì hai mạng người không đủ lót dạ cho nó. Hồi ông gặp con rắn đó, ông đang là Chi cục trưởng Chi cục kiểm lâm Cà Mau, anh Nguyễn Văn Thế mới là Hạt trưởng hạt kiểm lâm Dầu Dơi (khi đó, Vườn quốc gia U Minh Hạ chưa thành lập, mới chỉ có rừng đặc dụng Dầu Dơi và Vồ Dơi). Vì sợ anh em kiểm lâm hoang mang, nên ông Chín Của không kể với ai ngoài anh Thế. Sau này, khi một số anh em kiểm lâm cũng giáp mặt rắn khổng lồ, ông Chín Của mới công bố thông tin.
Cũng từng có ngót 20 năm gắn bó với Vườn quốc gia U Minh Hạ, đặc biệt là cũng từng ngang dọc vùng lõi Vồ Dơi, nhưng anh Nguyễn Văn Thế, Giám đốc Vườn quốc gia U Minh Hạ lại chưa có cơ may được diện kiến loài rắn khổng lồ mang hơi hướng huyền thoại này. Theo anh Thế, rừng U Minh có rất nhiều loài rắn. Rắn nước có nhiều, rắn độc cũng lắm. Riêng rắn hổ chúa loại trên dưới 10 kg thì rất nhiều. Trăn thì có hai loại phổ biến là trăn đất và trăn hoa. Những con trăn nặng cỡ trên dưới 100kg thì có rất nhiều trong U Minh Hạ. Hổ mây cỡ 10 đến 20kg cũng có nhiều, nhưng tuyệt nhiên anh chưa gặp những con rắn khổng lồ, nặng hàng tạ. Chuyện ông Chín Của và anh Hóa cưỡi xe máy và gặp rắn khổng lồ anh cũng được nghe kể, giống như chuyện gặp rắn khổng lồ mà nhiều người ở vùng Vồ Dơi cũng đã kể. Anh Thế sưu tầm được vô số chuyện kể về rắn khổng lồ, chỉ có điều dịp may được tận mắt vẫn chưa đến được với anh. Theo anh Thế, ngoài ông Chín Của, thì còn có một số đồng chí kiểm lâm nữa tận mắt rắn hổ mây khổng lồ, là anh Võ Văn Vinh và nhóm kiểm lâm ở chốt Cây Gừa.
Anh Võ Văn Vinh là người ở xã Trần Hợi, có tài đi rừng từ bé. Hồi 13, 14 tuổi, các đồng chí kiểm lâm vào U Minh Hạ còn bị lạc trong rừng, nhưng cậu bé Vinh thì không ngóc ngách rừng U Minh Hạ nào là không thuộc. Vinh có thể đi rừng cả tuần, nhưng vẫn nhớ lối ra một cách chính xác. Giờ anh Vinh đã 39 tuổi, chuyện lần đầu tiên gặp rắn hổ mây khổng lồ diễn ra năm 15 tuổi, tức là cách nay đã 24 năm, song anh Vinh vẫn còn nhớ như in. Con rắn kinh khiếp ấy in đậm trong tâm trí của anh, nên không bao giờ anh quên được.
Bữa đó, vào dịp cuối năm, cậu bé Vinh vào khu vực rừng Vồ Dơi để đơm cá, câu lươn. Đến khu vực cỏ lác, tràm thưa, khô ráo, thấy tiếng lợn rừng ăng ẳng, tưởng con lợn dính bẫy nên Vinh tiến lại xem. Bỗng dưng, từ đám cỏ lác cao đến bụng, con rắn khổng lồ dựng đứng cái thân to bằng khạp da bò (chum), cao đến 4m, bành mang bằng cái nia, thè lười thở phì phì. Nó liên tục phóng xuống mổ con lợn rừng. Con lợn cũng không vừa, nhe hai nanh nhọn hoắt húc con rắn. Cuộc chiến đấu diễn ra chừng vài phút, thì con lợn lăn quay vì bị trúng độc. Con rắn khổng lồ há miệng táp con lợn, rồi từ từ nuốt chửng. Bọn trăn khổng lồ trong rừng U Minh cũng thường xuyên nuốt lợn, nai, hoẵng, nhưng nuốt cả tiếng mới xong, riêng rắn hổ mây chỉ táp một cái là nuốt chửng vào bụng. Con lợn độc chiếc nặng ngót một tạ, mà nó nuốt chửng như vậy, thì anh chàng Vinh nhỏ bé chẳng đủ tráng dạ dày cho nó. Nghĩ thế, Vinh ba chân bốn cẳng chạy thục mạng khỏi rừng Vồ Dơi. Sau này, cũng có vài lần Vinh gặp rắn hổ mây khổng lồ, nhưng chỉ to cỡ cái phích, hoặc thân cây tràm lớn, chứ chưa bao giờ gặp lại một con hổ mây to như thế. Những khoảng chục năm trở lại đây, dù nhiều lần dẫn anh em cán bộ khoa học, các nhà nghiên cứu đủ cả ta lẫn Tây vào Vồ Dơi, với máy móc quay phim chụp ảnh hiện đại, nhưng không có thêm cơ hội nào gặp được rắn khổng lồ nữa. Riêng những con hổ mây cỡ trên dưới 20kg thì anh vẫn gặp nhiều.
Vào rừng tìm hổ mây
Anh Nguyễn Văn Thế, Giám đốc Vườn quốc gia U Minh Hạ tạo điều kiện tốt nhất để chúng tôi có được một chuyến xuyên rừng Vồ Dơi, với mục đích đi tìm loài rắn khổng lồ ở U Minh Hạ. Dù cơ may chạm mặt rắn hổ mây khổng lồ chỉ là một phần triệu, song tôi vẫn háo hức lên đường. Dù không gặp được hổ mây to như khạp da bò, phóng như bão cuốn trên đọt tràm, song cảm giác được vào “Vương quốc rắn khổng lồ” cũng vô cùng thú vị. Đoàn thám hiểm chúng tôi gồm có anh Nguyễn Huân, người Cà Mau, nhà báo Nam Giao (tạp chí Thế giới mới, văn phòng Cần Thơ). Nhà báo Nam Giao là người từng có nhiều lần tìm hiểu về U Minh Hạ. Anh Huân là một nhà doanh nghiệp, hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản. Anh có nhiều điền trang ở vùng U Minh và rất háo hức nghiên cứu về rắn hổ mây khổng lồ. Chúng tôi còn được anh Nguyễn Tấn Truyền, cán bộ khoa học của Vườn quốc gia U Minh dẫn đường vào đại ngàn Vồ Dơi tìm rắn hổ mây khổng lồ. Máy ảnh, máy quay chúng tôi đã chuẩn bị đầy đủ. Đại anh Huân còn mang theo cả máy quay ban đêm, với mong muốn ghi lại sắc nét các loài vật trong bóng đêm U Minh Hạ.
6 giờ sáng, khi mặt trời đỏ lòm ở đường chân trời, thì chúng tôi đã nai nịt đầy đủ, dao phát mỗi người một con, chui qua cổng vườn quốc gia nhằm con đường mòn hướng vào rừng Vồ Dơi. Cuốc bộ đến rạc cẳng, mặt trời treo trên ngọn tràm, thì một cái chòi canh xuất hiện. Tôi hỏi anh Truyền: “Rừng rậm um tùm thế này thì chắc đây là lõi rừng Vồ Dơi rồi anh nhỉ?”. Anh Tấn Truyền cười bảo: “Nhà báo còn phải đi nửa ngày nữa mới đến vùng lõi. Đây mới chỉ là vùng đệm thôi”. Chúng tôi tranh thủ trèo lên chòi canh. Chòi canh cao bằng ngôi nhà 10 tầng, vọt khỏi tán rừng tràm. Đứng trên chòi canh, nhìn ra tứ phía, chỉ thấy bạt ngàn tràm. Rừng tràm kéo dài đến tận đường chân trời. Ở vùng đồng bằng sông nước mà giữ được một cách rừng rộng đến hơn 50 ngàn héc-ta, trong đó 2.500 ha bảo vệ nghiêm ngặt, không ai được vào, thì quả là kỳ công. Rừng tít tắp, hoang hoải thế này, thì đi tìm con rắn khổng lồ khó khăn có khác gì đi tìm cây kim. Gặp được rắn hay tìm được kim, thì cũng chỉ là cơ may mà thôi, có lẽ khó hơn trúng giải độc đắc.
Mới chụp được vài kiểu ảnh, anh Truyền đã giục chúng tôi lên đường cho kịp tới chốt kiểm lâm Cây Gừa. Càng vào sâu, rừng tràm càng bạt ngàn, gây leo chằng chịt, bít lối. Chim hót ríu ran, khỉ chuyền cành rào rào khi thấy bóng người. Trời vừa nhập nhoạng tối, thì chúng tôi đến chốt Cây Gừa. Đợt này anh em kiểm lâm viên vào sâu trong rừng tuần tra, vừa đẩy đuổi các đối tượng vào săn bắt thú rừng, vừa kiểm soát tình trạng cháy rừng. Do có hẹn trước từ lãnh đạo, nên anh Tuấn ở lại chốt tiếp chúng tôi. Đặc sản cá lóc nướng trui anh Tuấn đã chuẩn bị sẵn. Rượu vẫn còn nửa can để ở gậm giường. Chúng tôi nhập cuộc nhanh chóng. Mỗi người chỉ uống vài chén, để không bị say, lại có thêm khí phách vào rừng đi tìm rắn khổng lồ.
Kiểm lâm viên Nguyễn Văn Tuấn, sinh năm 1971, quê ở Bến Tre, nhưng theo cha mẹ về U Minh sinh sống từ năm 15 tuổi. Từ đó, anh gắn bó với rừng U Minh Hạ này, nên thuộc rừng lắm. Lớn lên lại làm kiểm lâm, ngang dọc rừng U Minh Hạ, chẳng còn chỗ nào không in dấu chân anh. Bao năm đi rừng không có cơ may giáp mặt hổ mây, nào ngờ, mới đây, khi chuyện về hổ mây cứ rơi dần vào huyền thoại, vì ít người giáp mặt, thì anh và các đồng chí kiểm lâm ở chốt Cây Gừa lại được phen hú vía nhớ đời.
Nhấp ngụm rượu, anh Tuấn kể: “Đêm ấy, 4 năm trước, chừng 8 giờ đêm, khi anh em vừa tan cuộc lai rai, đang ngồi khoanh chân trên chiếc giường độc nhứt, thì nghe tiếng kêu của con chồn. Ở U Minh nhiều chồn lắm, nên tiếng kêu của nó chẳng lạc đi đâu. Nghĩ có kẻ vào rừng đặt bẫy, nên bọn tui lấy đèn pin ra soi thám thính tình hình. Tiếng con chồn kêu bên bờ kinh xáng, cách chốt khoảng 50 mét. Soi ở chỗ con chồn kêu mà chẳng thấy cái bẫy nào, cũng không thấy chồn đâu. Bỗng tiếng con chồn lại kêu ở phía xa. Nghĩ có con trăn nào bắt chồn, nên tui và Lĩnh, Hải lội vào rừng dọi đèn pin. Đến chỗ bụi tràm cao chừng 10m, cách bờ kinh chỉ 15m, cả ba chúng tui há hốc miệng, chết đứng, không ai dám nhúc nhích. Chiếc đèn pin tui cầm rọi đúng vào đầu con rắn. Cái miệng nó đang ngậm con chồn, đong đưa nhè nhẹ ở lưng chừng cây tràm. Hai mắt nó mở to bằng hai quả trứng, cách nhau tới gang tay. Tui rọi đèn xuống thấp hơn, thấy thân nó hơi ngả màu vàng trắng, đường kính thân cỡ 3 tấc, to gấp 2 lần cái phích. Tui tiếp tục dọi đèn đến phía đuôi nó, nhưng chỉ dọi được khoảng 5m thì không thấy nữa, vì thân nó lẫn trong bụi cây, tối thui. Bọn tui nắm tay nhau thật chặt, lùi lại từ từ, rồi ba chân bốn cẳng chạy tháo thân. Tối đó, bọn tui trốn tịt trong trạm, không ai dám ra bìa rừng nữa”.
Theo anh Tuấn, sau khi xảy ra sự việc giáp mặt rắn hổ mây khổng lồ, chốt kiểm lâm Cây Gừa đã về Vườn quốc gia U Minh Hạ báo cáo lãnh đạo gồm anh Nguyễn Văn Thế (giám đốc) và anh Tạ Vũ Linh (phó giám đốc). Lúc đó, anh Tuấn mới biết đến chuyện ông Chín Của và anh Hóa cũng từng chạm mặt hổ mây khổng lồ. Nơi ông Chín Của và anh Hóa đi tuần gặp hổ mây bò ngang đường cách trạm Cây Gừa, nơi nhóm kiểm lâm này ở khoảng 3000 mét. Lãnh đạo vườn quốc gia đã động viên anh em tiếp tục yên tâm công tác, bởi loài hổ mây tuy to lớn, nhưng không sát hại người bao giờ cả.
Hai tháng sau vụ rắn hổ mây khổng lồ về sát chốt bắt chồn, thì con hổ mây đó lại bò về “thăm” anh em kiểm lâm. Bữa đó, sau khi nhóm kiểm lâm gồm 6 anh em Thình, Lĩnh, Hải, Khai, Nam, Tuấn ăn cơm tối xong, mọi người uống trà, thì anh Lĩnh nhận nhiệm vụ ra bờ kênh ngay cạnh chốt nhấc rọ đơm cá. Vừa đi ra bờ kênh, cách chốt 20m, thì anh Lĩnh hét lớn: “Tới nữa anh ơi?”. Anh Tuấn chạy ra khỏi lán hỏi: “Tới gì mày?”, rồi cả nhóm kiểm lâm mỗi người một chiếc đèn pin chạy tới. Một con hổ mây khổng lồ đang bò ở ngay bìa rừng, cạnh bờ kênh. Nhóm kiểm lâm đứng cách con rắn chỉ 10m. Tất cả đèn pin được bật lên xem là rắn hay trăn. Bỗng nhiên, con rắn cất đầu lên không trung, cao tới 4m, rồi bành mang thở phì phì. Loài trăn bò dưới đất chỉ dũi dũi đầu, chứ không bao giờ cất đầu cao như thế. Đó chính xác là con rắn hổ mây khổng lồ, lớn tương tự như con mà nhóm kiểm lâm này gặp hai tháng trước. Nhiều khả năng đây chính là con rắn khổng lồ mà các anh đã gặp hôm nó về sát chốt tóm con chồn. Con rắn vừa cất đầu lên, anh Tuấn hét lớn: “Chạy chúng mày ơi!”. Thế là cả nhóm kiểm lâm cùng chạy té tát về chốt.
Lúc đó, nhóm kiểm lâm này mới hiểu vì sao, một số hộ dân sống rải rác trong rừng, cách chốt kiểm lâm Cây Gừa khoảng 2-3 cây số liên tục bị mất chó. Nhiều khả năng con hổ mây này không kiếm được mồi, nên mò về chỗ có người ở để săn chó nuôi. Đàn khỉ lông vàng thường về chốt Cây Gừa anh em kiểm lâm đếm được tới 35 con, nhưng số lượng cứ giảm dần, giờ chỉ còn 13 con. Có thể con hổ mây này đã xơi tái phần lớn đàn khỉ.
Những ngày sau lần gặp hổ mây khổng lồ, đêm nào cũng vậy, anh em kiểm lâm đều nghe thấy tiếng ào ào như gió cuốn ở rừng tràm, quanh quẩn chốt kiểm lâm. Biết rằng con hổ mây đang ở gần chốt, nên anh em kiểm lâm sợ hãi không ngủ được. Khi đó, chốt kiểm lâm chỉ dựng tạm bằng mấy chiếc cột, lợp lá tràm, bọc thêm tấm bạt bên trên để chống dột. Mấy kiểm lâm chả khác gì con mồi trước miệng rắn. Sau vài đêm mất ngủ, anh em kiểm lâm chốt Cây Gừa sợ hãi quá, lại kéo về gặp lãnh đạo Vườn quốc gia U Minh Hạ. Mọi người nhất loạt đòi bỏ chốt, chứ ở đó sợ lắm, con rắn không săn được mồi, đói bụng, thì anh em mất mạng như chơi. Thấy sự việc có vẻ trầm trọng, lãnh đạo Vườn quốc gia U Minh đã làm chuyến khảo sát xuống chốt Cây Gừa. Các phương án được đưa ra gấp rút, đó là dựng chốt bằng gỗ, có cửa chắc chắn và quây chốt bằng lưới B40. Dựng vách nhà thì anh em kiểm lâm đồng ý, nhưng dựng lưới thì không, bởi lưới B40 chẳng ăn thua gì với con rắn. Nếu nó mò vào chốt, thì tấm lưới chả khác gì cái rọ nhốt anh em kiểm lâm, để nó có thể bình tĩnh thưởng thức từng con mồi. Cứ để nhà trống, nó mải ăn người này, thì người kia còn có cơ hội tẩu thoát. Ngoài việc dựng nhà chắc chắn, chốt kiểm lâm còn được phân một khẩu súng, do anh Hải quản lý. Tuy nhiên, lãnh đạo quy định rõ, chỉ được dùng súng để bắn dọa, xua đuổi con rắn, trừ khi nó tấn công người. Mỗi kiểm lâm cũng được cấp một con dao mác rất dài và sắc, luôn đeo bên mình để phòng thủ. Ngoài ra, chốt kiểm lâm Cây Gừa cũng là đơn vị duy nhất ở vườn quốc gia được cấp đèn sạc rất mạnh và máy Icom, để cấp báo khi bị rắn hổ mây tấn công. Tuy nhiên, sau khi được trang bị tận răng, thì con hổ mây khổng lồ đó xuất hiện thưa thớt dần. Anh em kiểm lâm ở đây chưa nhìn thấy nó thêm lần nào nữa.
Đồng hồ điểm 8 giờ đêm, chúng tôi nai nịt lên đường. Đèn pin người cầm tay, người đeo ở đầu. Người cầm dao, người cầm gậy cốt để an lòng, rồi cứ thế đi dọc bờ kênh. Thi thoảng lại có một con đường mòn cứu hỏa cỏ rậm lấp lối dẫn vào trong rừng. Anh Tuấn đi trước soi đèn, vạch cỏ xua rắn, chúng tôi lò dò theo sau. Đi một lát, anh Tuấn lại dừng lại, bảo mọi người im lặng để anh lắng tai nghe. Tuy nhiên, chẳng thấy sự di chuyển ào ào như bão cuốn của rắn khổng lồ từ xa vọng lại. Rừng đêm yên tĩnh đến lạ thường. Thi thoảng, từ xa vọng đến tiếng nai tác, tiếng chồn kêu nhang nhác tiếng mèo. Rắn hổ mây khổng lồ chẳng thấy đâu, nhưng chúng tôi chụp được vô số hình ảnh về các loại rắn nước, rắn độc to cỡ cổ tay, ngón chân người. Thậm chí, có cả những chú rắn có râu, nhỏ bằng cái đũa, nằm khoanh tròn trên lá khoai nước mặt kệ ánh đèn pin và đèn flash sáng lòa.
Đêm sau, chúng tôi đã nhử rắn hổ mây khổng lồ bằng cách buộc vịt vào dây thả dưới mương cho nó kêu, đêm sau thử bằng con chó cỏ, rồi đêm tiếp treo chú mèo lên ngọn tràm để giả mồi chồn… Thế nhưng, suốt cả tuần mà rắn hổ mây khổng lồ vẫn không xuất hiện. Anh Nguyễn Tấn Truyền, cán bộ khoa học của vườn quốc gia bảo rằng, anh đã nghe vô vàn chuyện về rắn hổ mây khổng lồ trong rừng U Minh, nhưng bản thân anh, cũng ngang dọc trong rừng mười mấy năm rồi, mà vẫn chưa có duyên gặp được loài rắn này. Anh Truyền chưa tin lắm vào sự tồn tại của nó, nhưng tôi thấy cái cách mà anh em kiểm lâm nghiêm cẩn chuẩn bị cùng chúng tôi luồn rừng tìm rắn, đủ biết sự tồn tại của loài hổ mây khổng lồ là có thật. Chỉ có điều, nó nặng vài tấn, vài tạ, hay vài chục kg, thì còn là một câu hỏi vẫn chưa có lời giải đáp.
Dương Phạm
(Chú thích ảnh: Trò chuyện với giám đốc VQG U Minh Hạ. Cảnh lang lang ở VQG U Minh Hạ)
同時也有1部Youtube影片,追蹤數超過8萬的網紅Mẹ Nấm,也在其Youtube影片中提到,TIN QUỐC TẾ 1. Các chuyên gia y tế Mỹ phản ứng khi FDA tuyên bố sẵn sàng cấp phép lưu hành cho vaccine chưa qua kiểm nghiệm lâm sàng. 2. Tổng thống Be...
rượu vang Ý nhập khẩu 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的最佳解答
Săn thú trong rừng thẳm
Kỳ 3: BẮT ĐẠI XÀ VÀ BẮN GỤC NAI
Ký sự của PHẠM DƯƠNG NGỌC
BẮT ĐẠI XÀ
Đêm đầu tiên của cuộc săn, bắn hạ được chú nhím, tuy không phải thành công lắm, song ai cũng phấn chấn và hy vọng ngày mai sẽ tìm được xác con lợn rừng theo vết máu và vết chân khập khiễng của nó.
Ngọn Đản Kháo trồi lên giữa đại ngàn Cáp Tà cao ngất ngưởng như chiếc cột chống trời trong truyền thuyết của bản làng người Nùng. Đỉnh Đản Kháo chặn những đám mây từ phương Đông dạt đến và đổ mưa, tạo thành những dòng thác gầm gào, dữ dội ngày đêm. Rừng Cáp Tà có độ ẩm cao nên theo Khưa có rất nhiều rắn chúa. Khưa bảo, ngày mai lang thang trong rừng thể nào cũng có được dấu vết loài đại xà rừng xanh. Người Mông ở Thông Nguyên là những chuyên gia săn đại xà. Khu rừng nào có bóng dáng loài hổ chúa là người Mông ở Thông Nguyên có mặt. Tuy nhiên, săn rắn chúa bây giờ khó như tìm vàng, có khi cả tháng luồn rừng mà chẳng thấy một vết bò chứ đừng nói là săn được.
Sau hơn nửa ngày trèo núi, mới lên đến lưng chừng ngọn Đản Kháo, chúng tôi lại tiếp tục thả dốc từ độ cao của ngọn núi 2.000m này để tiến sâu vào rừng già Cáp Tà theo dấu chân và dấu máu con lợn rừng bị thương để lại. Lọt được vào trong rừng cũng là lúc mặt trời đã mất tăm mất tích. Mọi người dừng chân, ăn uống qua loa rồi chui vào túi ngủ. Tôi nằm trằn trọc không sao chợp mắt. Chiều nay mệt là vậy mà sao giờ khó ngủ quá. Tôi lần ra bờ suối ngắm trăng giáp rằm, nghe tiếng rừng xào xạc và tiếng sương đọng trên lá rơi lộp bộp cho đến tận khuya.
Mờ sáng, Khưa đã lôi tôi dậy dọn đồ rồi tiếp tục lần theo dấu chân con lợn rừng. Cứ hướng đi của nó mà lần theo thể nào cũng thấy cả ổ. Đang lần theo dấu lợn rừng thì Khưa bỗng reo lên sung sướng khi phát hiện dưới gốc một cây nghiến cổ thụ có vết rắn bò nhẵn thín. Khưa khẳng định vết bò đó là của một con rắn chúa rất lớn.
Vừa quan sát, Khưa vừa giảng cho tôi bài học vỡ lòng về loài rắn đã được ghi vào sách đỏ này. Vết rắn bò còn nhẵn tức là rắn mới bò qua. Vết rõ thể hiện rắn đã sống ở đây từ rất lâu và là rắn to. Nếu thấy dấu rắn thì coi như xác suất tìm được tới 90%. Rắn chúa là loài ít di chuyển, chúng chỉ săn mồi vào mùa xuân, hè, thu. Mùa đông lạnh, lại có sương núi, chúng nằm ẩn trong hang cả tháng không bò ra ngoài.
Cách đây chừng 20 năm, tức thập kỷ 80, vùng Hoàng Su Phì nổi tiếng vì có nhiều rắn chúa. Hoàng Su Phì có rừng già, có nhiều sông suối, ẩm ướt lại là núi đất nên thích nghi với điều kiện sống của loài rắn chúa. Rắn ở đây gồm đủ các loại, từ xanh lè, dài ngoẵng, tới to như con trăn, da mốc sì... thi nhau quăng mình, ngóc đầu trong lau tranh, vách đá. Hồi đó, người Mông, người Dao, người Nùng, người La Chí coi rắn là món ăn thường ngày. Mỗi lần lên nương thể nào cũng phải xách về được vài con rắn làm chả, hấp, nướng, ngâm rượu... Thậm chí, đi giữa đường cái cũng bắt được rắn chạy ngang qua. Người nào không có máu yêng hùng lại khoái khẩu món thịt rắn thì chịu khó buổi sáng đi bộ dọc con đường đá hộc lổn nhổn liên huyện thể nào cũng vớ được đôi ba cái xác rắn bị xe ô tô cán chết nằm cong queo bên đường. Đấy là chuyện của ngày xưa. Giờ rừng mỗi ngày một co dần lên núi cao, con người mỗi ngày một khôn, rắn mỗi ngày một có giá nên nó về xuôi cả rồi. Loài rắn chúa sống chủ yếu trong rừng sâu nên mới còn tồn tại. Tuy vậy, săn được con rắn chúa giờ đây không phải chuyện dễ. Thợ săn rắn luồn rừng cả tháng chẳng được con nào là chuyện thường.
Từ ngày rắn chúa lên ngôi thì người ta đổ xô vào rừng săn tìm. Thậm chí, xã Thông Nguyên còn có vài đội quân chuyên đi săn rắn chúa. Rừng ở Thông Nguyên hết rắn thì họ tìm đến rừng ở nơi khác, thậm chí sang tới cả Lào Cai, Cao Bằng, Yên Bái để truy sát nốt số rắn chúa ít ỏi còn sót lại.
Đám thợ săn rắn đều đã được những tay buôn hợp đồng miệng trước với giá cả thoả thuận. Những tay săn rắn này có thể bán ngay tại bản với giá 200 ngàn/kg rắn to. Đám buôn rắn phần lớn là người miền xuôi lên đây tìm rắn giống về bán lại cho các làng nghề nuôi rắn như Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc), Lệ Mật (Gia Lâm), đặc biệt là làng nuôi rắn chúa Phụng Thượng (Phúc Thọ, Hà Tây). Làng Phụng Thượng là nơi tập hợp, trung chuyển tới 90% số lượng rắn chúa có trên cả nước. Từ xưa, người dân Phụng Thượng đã nức tiếng về tài nuôi những con rắn chúa to như con trăn, nặng cỡ 20-25kg, dài 5-7m.
Tôi chạy theo bước chân dài thoăn thoắt của Khưa. Vết con rắn chúa bò in trên nền đất mùn ngày một hiện rõ dần và kết thúc ở một cái hang khá lớn, giữa một khoảng không lau lách, bên con suối nhỏ, dưới một gốc cây lớn đã mục ruỗng từ lâu. Không ai nói ai rằng, mỗi người một việc rất chuyên nghiệp. Mìn lấy thuổng, thuốn, móc, dao... Cheng phát quang bụi rậm và lần tìm những cửa hang phụ cách đó tới cả chục mét ngắm nghía, phán đoán rồi lấy đất cứng đắp lại.
Rắn chúa là loài to nhất trong các loại rắn. Có lẽ nó chỉ kém loài rắn khổng lồ hổ mây, có khả năng nuốt cả trâu bò ở rừng U Minh. Tuy nhiên, chưa ai nhìn thấy loài rắn này. Người ta chỉ biết đến qua các câu chuyện kể của… bác Ba Phi, chuyên nói dóc.
Loài rắn chúa đã được ghi trong sách đỏ và có nguy cơ tuyệt chủng từ rất lâu rồi. Tuổi thọ của chúng có thể tới vài chục năm. Trong môi trường tốt chúng nặng tới 30 kg và dài 7-8 mét. Chúng sống trong các hang động đào sâu trong lòng núi của các loài khác như chồn, cáo, dũi, cầy, chuột rừng... Rắn chúa ăn các loại rắn nước và những con thú cỡ nhỏ. Tuy to lớn song sức chịu đựng lại không dẻo dai nếu tách chúng khỏi môi trường hoang dã. Khi đã bị bắt thì dù chết đói loài mãng xà này cũng không tự ăn mà phải vạch miệng ra rồi đút thức ăn vào tận dạ dày của chúng.
Với kinh nghiệm của mình, Khưa khẳng định đây là một con rắn chúa rất lớn, có thể nặng từ 7 đến 10kg. Tuy nhiên, tóm được nó cũng rất kỳ công. Đây là chiếc hang của loài cáo rồi tiếp đó đàn dũi vào đào thêm nhiều nhánh nữa nên phải thận trọng, chỉ cần bịt sót một ngách là công toi. Khưa khuyên tôi ra xa miệng hang khoảng chục mét để đề phòng bất trắc. So với các loài rắn khác thì rắn chúa rất hiền, chúng không bao giờ tấn công người nếu không đụng đến chúng. Loài rắn chúa to, nặng nên bình thường chúng khá chậm chạp, song nếu thấy nguy hiểm chúng nhanh như gió, có thể quăng mình xa tới 6 mét và cắn chết vài con trâu mộng một lúc. Nọc độc của rắn chúa đã xâm nhập vào cơ thể thì không hy vọng sống sót. Nếu được sơ cứu rồi đưa đến bệnh viện kịp thời thì cũng mê man bất tỉnh vài tuần rồi chết, sống được cũng tật nguyền suốt đời. Chính người đồng hành của Khưa ở xã Thông Nguyên đã phải bỏ mạng ở Chiến Phố cách đây 4 năm khi bị một con rắn chúa cỡ 8 kg “bổ” trúng mặt. Ngón tay út chỉ còn một đốt của Khưa là “chiến tích” khi tóm con rắn chúa trong rừng Pố Lồ. Vừa kịp tránh nhát “bổ” trực diện của nó thì lập tức bị nó “phập” một nhát vào ngón tay. Khưa vung dao chặt đứt phăng ngón tay của mình và thoát chết trong gang tấc. Đốt ngón tay bị chặt đứt năm đó Khưa vẫn giữ làm kỷ niệm. Nó được ngâm trong bình rượu và được đặt trang trọng trong chiếc tủ cũ ọp ẹp.
Ước chừng đã đào được hơn hai giờ đồng hồ, một khoảng đất rộng giữa bốn bề lau lách bị xới tung. Khưa hô hào mọi người chuẩn bị tóm chú rắn chúa đang ngoan ngoãn nằm khoanh mình giữa một khoảng không rộng bằng miệng thúng dưới lòng đất. Khưa đưa chiếc móc kéo mình con rắn lên khỏi miệng hang. Bất ngờ, một khối mốc xì bằng bắp chân lao ra nhanh như chớp. Sên vung cán chiếc thuổng ấn đầu chúa tể loài rắn xuống đất. Khưa lao vào dùng sức mạnh của cả hai cánh tay gân guốc khóa chặt đầu nó lại. Toàn thân đại xà rừng xanh quằn quại, quăng mình uỳnh uỵch tìm cách trốn thoát. Nằm ngoài cả dự đoán của Khưa, con rắn chúa này nặng cỡ 12kg, dài độ 5 mét. Trong ổ của nó còn 3 con rắn con bằng nắm liềm đang ngoe nguẩy. Vụ tóm gọn ổ đại xà này đủ cho đám thợ săn chúng tôi nhậu nhẹt tưng bừng cả tháng ở thị trấn heo hút Vinh Quang.
Sau bữa quần thảo với hang rắn, cả đám thợ săn đều mệt tả tơi. Mìn vẫn còn sung sức nên vác khẩu kíp phục kích mấy chú sóc đang thậm thụt ven bụi cỏ. Bữa cơm tối hôm đó mọi người được thưởng thức món thịt sóc xào mầm thảo quả rất tuyệt. Tôi đánh một giấc ngon lành đến sáng. Tỉnh dậy, ông mặt trời đã lấp ló sau đại ngàn.
ĐUỔI NAI
Giấu đồ đạc dưới gốc cây nghiến cổ thụ, chúng tôi chỉ đeo theo súng và bi đông nước uống, rồi tiếp tục đi theo dấu chân của con lợn bị bắn thương. Đúng như phán đoán của các “chuyên gia” săn thú, càng đi xa, vết máu của con lợn rừng càng ít và thâm sì. Khưa khẳng định nó chỉ bị trúng bụng và chân, không thể chết ngay được.
Cuộc rượt đuổi theo dấu chân lợn rừng là một bài học quan trong đối với tôi. Nó cũng thử thách lòng kiên nhẫn của con người. Đám thợ săn rà soát một cách tỉ mỉ mọi dấu hiệu bằng cả mắt, mũi, tai. Họ lục lọi mọi bụi rậm, gốc cây, khe ngách, phát hiện mọi điều nghi ngờ, đặc biệt là chú ý hướng đi, chiều gió. Mỗi bước đi luôn cẩn thận, chậm, nhẹ và liên tục dừng lại để nghe ngóng. Khi bất chợt phát hiện ra thú thì họ có thể đứng im như tượng. Đi săn trúng nhất là vào sáng sớm hoặc chiều tà, bởi vì khi ăn xong, đàn thú còn nha nhẩn ở bìa rừng, trảng cỏ. Sau cơn mưa vài ngày cũng rất dễ gặp thú đi ăn.
Sau hai tiếng luồn rừng, dấu chân lợn rừng xuất hiện ngày một nhiều và rõ hơn, toe toét trên nền đất đầy lá mục. Phía trước mặt, bên dòng suối Pô Chuông là một bãi rộng, lau lách lút cổ, phía dưới tảng đá cao hơn chục mét, dưới một gốc cây bốn năm người ôm mới xuể có la liệt cành khô, lá khô. Sên bảo đây là ổ lợn rừng. Quả thực, dù trí tưởng tượng của tôi có phong phú cỡ nào cũng không thể hình dung nổi ổ lợn rừng lại to đến vậy. Đường kính của nó rộng đến 5m, có đến cả tấn củi lá được chúng tha về.
Khưa nhận định đàn lợn đã bỏ đi cách đây vài ngày, nếu tìm được chúng cũng còn mệt. Vượt qua dòng Pô Chuông, qua ngọn núi chằng chịt dây leo, trước mặt chúng tôi hiện ra một khu rừng rất sạch sẽ. Đây đó có những vết chân mờ mờ và dấu ăn thể hiện rõ ràng ở những đám cỏ dại. Bất chợt cả 4 dừng lại. Tôi ngơ ngác không hiểu gì. Cheng giải thích rằng đây là rừng cấm, không ai được vào và lấy đi bất cứ thứ gì. Đối với người Nùng, rừng cấm là lãnh địa rất linh thiêng. Trong rừng cấm này, hàng năm diễn ra những lễ hội cầu lộc của người Nùng. Một con chim, một cành củi khô cũng đều là của Thần Rừng, không ai dám xâm phạm. Đàn lợn rừng ở trong đó cũng đã là con vật của thần linh, không ai dám bắt nữa. Chúng tôi đành quay về nơi để đồ, tiếp tục hành trình mới.
Sau bữa trưa thịt nhím luộc cùng với măng rừng, tôi được thưởng thức thêm món mầm thảo quả ăn sống, một đặc sản của người Nùng ở xứ sở mây trời sương núi này.
Sau hai ngày vừa đi vừa nghỉ, xuyên qua các bản làng lấp ló trong những cánh rừng, chúng tôi có mặt ở địa bàn Tuyên Nguyên. Ngày đi, đêm ngủ tại các bản làng và đồ ăn là những thứ có sẵn trong rừng như măng, mầm thảo quả, rau rừng. Những con vật như chồn, sóc, dũi, cầy, cáo... ngày nào cũng bị đám thợ săn bắn hạ làm thức ăn.
Cả xã Tuyên Nguyên rộng lớn là những cánh rừng già ngút ngàn. Đi từ sáng sớm, đến khi bóng chiều xuống dần mà vẫn chỉ thấy một màu xanh thẫm, trầm mặc của rừng. Bản Thượng Bình vẫn mất hút sau những con đường mòn quanh co như sợi thừng mà đám sơn tràng bỏ quên vắt chùng trình trên sườn núi.
Chúng tôi dừng chân trên sườn một ngọn núi cao ngất trời. Ánh hoàng hôn rực lên như đám cháy, bao kín nửa bầu trời. Mặt trời đang lặn, không khí trong suốt như pha lê. Trên suốt chặng đường Mìn cứ càu nhàu vì chưa được nổ súng lần nào. Bất chợt, từ một bụi lau lách lan rộng có một con gà rừng bay ra. Nó chưa kịp đặt đôi chân mỏng manh xuống đất thì “đoàng”, con gà rã cánh xõng xoài. Gã cười đắc chí, đêm nay trong khẩu phần lại có món thịt gà rừng.
Đêm ấy, chúng tôi ngủ ở bìa rừng Thượng Bình. Mới 5 giờ sáng, Khưa đã đánh thức mọi người dậy. Gã bảo có tiếng nai kêu gọi cái. Tôi cùng Khưa vác súng, vạch sương tìm đến nơi có tiếng kêu phát ra lúc nãy.
Đi một lát thì thấy hiện ra một dòng suối nhỏ. Bên bờ suối là bãi cỏ hẹp lút ngối chạy dài. Phía trên sườn núi là những cây dổi, lát, sến cao vút, thân dài đuồn đuỗn chọc thẳng lên trời xanh. Từ phía dưới những tán cây rậm rạp đó xuất hiện một con nai khá lớn, dễ đến cả trăm ký đang nhẩn nha nhai cỏ rồi tiến ra phía bờ suối uống nước. Khưa giương súng ngắm bắn. Vừa định kéo cò thì bất chợt con nai quay ngoắt chạy vào trong rừng. Khưa tỏ ra tiếc rẻ, song gã khẳng định rằng sẽ hạ được nó, chỉ cần kiên trì chờ đợi.
Theo Khưa thì ở những khu rừng dọc dãy Hoàng Liên Sơn và Tây Côn Lĩnh đều có nai và hoẵng. Ngày xưa, gã đã từng bắn hạ một con nai nặng tới 150 kg ở đây khi nó ra bờ suối uống nước. Nai là loài ăn cỏ, quả, và các loại hoa màu. Nó không bao giờ ở một nơi nhất định mà luôn di chuyển để kiếm ăn. Chúng thường kiếm ăn ở các trảng cỏ, bên bờ suối, trên các sườn núi cỏ gianh. Ở trong rừng nó tước vỏ cây dẻ, cây thông để ăn như bọn sơn dương. Nó là loài ưa ăn muối nên hễ ở đâu có đất sét hoặc than tro là lần đến.
Nai thường ăn đêm. Ban ngày chúng trú ẩn trong rừng sâu để nhai lại. Nai già, có gạc cứng mới dám ở lâu trong rừng rậm. Chúng ưa ở rừng gai thưa và leo trèo lên đỉnh núi để nhòm ngó được xa. Vào mùa khô, đám thợ săn cứ phục kích ở bên suối hoặc bên những vũng nước chắc chắn sẽ bắn được nai. Mùa mưa thì phải lần theo dấu chân hoặc rình ở những khu rừng thưa vào chạng vạng sáng.
Nai là loài rất ngờ nghệch, hôm trước bị bắn trượt, hôm sau lại tìm đến chỗ đó kiếm ăn. Có khi săn đuổi riết quá lại lơ ngơ chạy về chỗ cũ, vì vậy nai rất dễ bắn. Có thể săn nai về đêm, dùng đèn chiếu hoặc lợi dụng ánh trăng. Bắn nai cũng phải nhắm trúng tim, óc hoặc xương sống nó mới chịu quỵ xuống. Nếu trúng chân hoặc bụng nó vẫn có thể chạy thoát được. Khi nó chạy thoát thì không được đuổi theo ngay mà phải kiên trì chờ đợi. Nếu đuổi theo ngay sẽ làm nó sợ và chạy xa hơn. Thông thường sẽ tìm thấy nó nằm ở vũng nước hoặc bên bờ suối. Nếu nó bị thương mà không thấy có dấu máu thì không nên đi tìm làm gì cho mệt.
Đối với dân săn bắn chuyên nghiệp như Khưa, Cheng, Mìn, Sên, họ không bao giờ bắn nai cái có chửa vì ngoài lý do để nó sinh đẻ còn là vấn đề liên quan đến tâm linh. Dân săn thú tin rằng, nếu giết chết nai chửa, cả năm đó sẽ chỉ gặp xui xẻo, thậm chí mất mạng trong rừng. Chuyện này không biết có đúng không, nhưng rừng xanh luôn huyền bí mà đám thợ săn luôn tin những gì người đi trước dạy lại.
Con nai có giá nhất ở bộ gạc, nhung và cả cái đầu. Nhà giàu thường trả giá cao mua về treo trong nhà làm cảnh. Thịt nai ngon, mềm, bổ, xương nấu cao khá tốt. Khưa dạy tôi chi tiết cách phân biệt dấu chân nai với các loài thú khác. Vết chân nai đực sẽ để lại dấu hai móng nhọn, phía sau gót tròn, chẻ riêng hai móng, ở giữa là vệt lòng của hai móng chân. Căn cứ vào vệt của hai móng trước và móng chân sau có thể đoán tuổi của con nai và biết được là vết chân nai cái hay nai đực (?!). Nai nhỏ thì dấu hai đầu móng nhọn và khép lại gần nhau, dấu ở bờ móng sắc cạnh, hai móng thoái hóa cũng in mờ trên đất và gần nhau. Nai càng lớn thì hai đầu móng chân càng tõe rộng ra và kém nhọn đầu, gót chân dầy lên và thấy vết chân sau nhỏ hơn vết chân trước, dấu ở bờ móng kém sắc cạnh, gót chân choãi rộng ra, hai móng thoái hóa cũng rộng hơn, các vết chân trước và sau cách xa nhau dần. Vết chân nai cái nhỏ như chân nai đực con, khoảng cách hai móng hẹp hơn.
Nai là loài hiền lành nhưng sống dai. Cách đây mấy năm chính Khưa đã bắn gục một con nai tại chỗ này. Tưởng nó đã chết bèn treo súng vào gạc nó rồi nhảy xuống suối tắm. Nào ngờ nó tỉnh dậy dông tuốt cả súng vào rừng. Chuyến đó lần theo cả ngày mà không thấy tăm hơi đâu.
Săn nai về mùa đông thường dễ gặp vì đó là mùa động dục, chúng thường phát ra tiếng kêu và về các đồng cỏ, ven suối uống nước.
Sau mấy tiếng giảng giải, ông mặt trời đã ở giữa đỉnh đầu, trải ánh nắng ấm áp khắp mọi nơi mà không thấy con nai quay lại. Khưa quyết định chia thành 3 hướng để lần theo dấu chân nó. Tôi và Khưa ngược dòng Nậm Khòa tiến sâu vào rừng.
Sau hai giờ đi bộ không biết mệt mỏi, qua những rừng cây cao, lá cây đan sin sít, không một giọt nắng nào lọt qua được, chúng tôi tới sườn một ngọn núi cao chót vót, chỉ có những cây thông hiên ngang vươn thân hình sù sì lên trời. Mấy chú bìm bịp đậu tít trên cao im lìm, những con gõ kiến sặc sỡ gõ côm cốp vào vỏ cây dầy. Tiếng hót du dương của chú sáo đen bất ngờ vang lên từ những vách đá. Phía dưới dòng suối, ngoài bìa rừng lau lách, chim sâu, chim bông lau ríu rít hát ca. Một chú thỏ rừng lông trắng len lén men theo bìa rừng, thận trọng nhảy cà nhắc. Chú sóc nâu nhảy thoăn thoắt từ cây nọ sang cây kia và bỗng nhiên dừng lại, dựng cao đuôi lên đầu, bất ngờ nhảy bổ vào bụi dương sỉ răng cưa xinh đẹp mọc tua tủa dưới chân tảng đá lớn.
Tôi đang mải thả hồn theo bước nhảy của những loài vật nhỏ bé, đáng yêu thì Khưa vỗ vai bảo dừng lại. Theo hướng chỉ tay của Khưa tôi nhìn thấy một con nai đang đứng trên đỉnh núi đá ngỏng cổ nhìn ngó xung quanh. Chúng tôi nhẹ nhàng, thận trọng từng bước lần dưới những tán lá rừng, sau những bụi cây để tiến về phía nó. Khi đã tiến đến một lùm cây khá gần, ước chừng chỉ cách con vật 50m, Khưa nhẹ nhàng lách súng qua kẽ lá hướng về phía nó. Con nai tội nghiệp vẫn nhẩn nha ngóng nhìn những ngọn núi nhấp nhô. Nó không biết rằng ngay dưới chân nó, họng súng kíp sắp bốc mùi khét lẹt.
Đoàng. Một tiếng nổ đanh ngọn, con nai đáng thương nhảy cẫng lên rồi gục xuống. Chúng tôi vạch những đám dây leo chằng chịt tìm lên, vừa tiến đến cách nó còn 10m thì nó chợt vùng dậy chạy như điên xuống phía thung lũng. Máu hồng tươi in loang lổ trên nền đá sỏi, trên những chiếc lá khô cong queo. Khưa khẳng định rằng con nai này đã bị trúng phổi và họng, không thể sống lâu được. Theo vết máu của nó vung vãi khắp nơi chúng tôi xăm xăm thả dốc. Vết máu cứ ít dần, vón cục, thâm sì. Vậy mà cũng phải mất hơn tiếng rượt theo chúng tôi mới tìm thấy xác nó nằm bên suối.
Sên, Mìn, Cheng theo tiếng súng tìm đến. Mìn đang kéo con nai đã tắt thở ra khỏi bụi gianh, bất chợt gã thả ra và dán mắt xuống mặt đất rồi hét lên vì sung sướng. Cả Khưa, Cheng, Sên đều lao vào vạch các bụi cỏ gianh, bụi lau để tìm kiếm một cái gì đó, mặc xác con nai chỏng chơ giữa bãi cỏ. Khưa bảo rằng: “Trúng lớn rồi, ở đây có trăn”.
(Còn tiếp...)
(P/S: Đây là ký sự viết năm 2000, tức là cách nay 21 năm. Khi đó, rừng rú ở Hoàng Su Phì còn rậm rạp, thú dữ còn nhiều và việc săn bắn chưa được coi là phạm pháp. Câu chuyện này lạc hậu rồi, nhưng đọc lại để đắm mình vào một thời kỳ huyền bí lãng mạn với rừng già của người dân vùng cao. Chuyện đã cũ, đọc cho vui và hiểu được sự cầu kỳ của kỹ năng săn thú thời xưa, các bố chớ có ném đá là lâm tặc nhé).
Chú thích ảnh: Tác giả trong chuyến đi săn ở rừng Hoàng Su Phì năm 2000.
rượu vang Ý nhập khẩu 在 Phạm Dương Ngọc Vlog Facebook 的精選貼文
VÁCH NÚI ĐẦY TỔ ONG và chuyện bí ẩn về THẦN ONG
(Nhân chuyện lấy mật về phục vụ mọi người, đăng bài viết này đọc cho vui. Thêm kiến thức về người vùng cao với loài ong rừng. Bài viết cách nay 4-5 năm. Người dẫn đường là anh Nông Văn Huy qua đời năm ngoái vì gió hang ở hồ Na Hang)
Thật kỳ lạ, khi vách núi dựng đứng có tới 12 tổ ong rừng, mỗi tổ to bằng nửa cái chiếu treo lủng lẳng trên vách đá. Càng kỳ lạ hơn, khi những tổ ong này đã hiện diện trên đó cả trăm năm qua và không ai dám ăn trộm. Mỗi năm một lần, dân bản phải cúng bái cẩn thận, gieo quẻ xin thần rừng, thần núi, rồi mới dám thu hoạch. Đã có một số trường hợp ăn cắp ong nhận kết quả thảm hại, người phát rồ, người mất mạng trong hang đá thảm khốc đến nỗi vẫn chưa lấy được xác…
Tổ ong kỳ bí
Trong chuyến đi rừng tìm dấu vết đàn hổ ở rừng nghiến Lâm Bình (Tuyên Quang), bên đống lửa sưởi nơi vách đá, nguyên thợ săn Nông Văn Huy, người bản Nà Tông (xã Thượng Lâm, Lâm Bình), kể nhiều câu chuyện kỳ bí của rừng già. Trong số những câu chuyện lạ lùng ấy, tôi ấn tượng với chuyện về những tổ ong rừng. Rừng Lâm Bình hoang sơ, kỳ bí, không chỉ là lãnh địa của những loài voọc quý hiếm, mà còn là lãnh địa của loài ong khổng lồ.
Giống ong ấy có tên là ong khoái, thân đen với những vằn vàng to bằng ngón tay người, đốt chết cả người lớn. Đi rừng nhiều, nên tôi không lạ gì giống ong này. Chúng thường làm tổ trên những vách đá cao, dựng đứng, những nơi hiểm trở ít bóng người qua lại. Những tổ ong khoái thực sự là những kỳ công. Giới đi rừng gặp được tổ ong khoái lâu năm thì trúng lớn. Có những tổ ong khoái to bằng cái chiếu, cho tới cả trăm lít mật. Mỗi lít mật ong rừng có giá nửa triệu, thậm chí cả triệu bạc nếu bán ở thành phố, thì việc trúng tổ ong khoái khổng lồ chẳng khác gì trúng số.
Tổ ong hoang dã cho mật quý giá như vậy, nhưng có một điều lạ lùng, là ở rừng Lâm Bình, có hai vách núi dựng đứng giữa rừng hoang, có hai quần thể ong khoái khổng lồ làm tổ, nhưng không phải ai cũng dám trèo lên lấy mật. Phải chăng đám thợ săn ong sợ độ cao? Điều đó không phải, bởi những vách đá loài voọc má trắng quý hiếm nơi đây trú ngụ còn hiểm trở khủng khiếp hơn nhiều, mà đám thợ săn huyết lình vẫn còn trèo được. Họ bắc những chiếc thang dây nhìn đến hãi. Đứng dưới chân núi nhìn lên, hệ thống thang như những que tăm bám vào vách đá. Đám thợ săn trèo trên vách đá chẳng khác gì mấy con nhặng, nhỏ xíu như hạt đậu. Anh Huy bảo rằng, anh và đám thợ săn đều sợ những câu chuyện tâm linh huyền bí, huyễn hoặc bao phủ quanh những tổ ong có tuổi cả trăm năm này. Anh Huy vốn là thợ săn, từng bắn chết cả hổ, hạ vô số gấu, chồn cầy, voọc khỉ giết cả trăm con, nhưng nhắc đến những tổ ong kỳ lạ, anh dựng tóc gáy, không dám đến gần chứ đừng nói đến chuyện trèo lên vách đá để thu lượm mật ong. Điều này quả thực lạ.
Theo lời anh Huy, trong đại ngàn Lâm Bình, có hai vách núi có quần thể tổ ong lớn nhất, là núi Nà Thị và núi Giang Chí, đều trong rừng phòng hộ, trên địa bàn xã Khuôn Hà. Đứng trên mỏm núi hình răng cưa thuộc xã Thượng Lâm, anh Huy chỉ tay về hai mỏm núi cao nhất của xứ Tuyên, chìm trong mây mờ, ẩn sau lớp lớp những dãy núi cao chất ngất mà thấy nản. Để đến được núi Nà Thị, phải mất ngày rưỡi cuốc bộ leo núi, luồn rừng, còn để đến được đỉnh Giang Chí, mất trọn một ngày đi bộ liên tục. Núi Nà Thị không có bóng người, toàn bộ là rừng già, nên có đến được núi đó, cũng không biết hỏi ai. Chúng tôi chọn núi Giang Chí để đi tìm quần thể tổ ong kỳ lạ. Theo anh Huy, trên vách núi Nà Thị lúc nào cũng có khoảng 10 tổ ong, mỗi tổ to bằng cái chiếu, chứa đến ngót trăm lít mật. Vách núi ấy cao đến nỗi, ngửa cổ nhìn lên, mà thấy tổ ong to bằng cái chiếu chỉ còn như cái đĩa đựng xôi. Cứ vài năm, tổ ong to quá, lại rụng xuống một phần, nên cả trăm năm qua, dưới chân vách núi ấy, tầng tầng lớp lớp sáp tổ ong dày đến cả mét. Câu chuyện về những tổ ong ở núi Nà Thị quả hấp dẫn.
Những tổ ong ngàn tuổi?
Sau hai tiếng ngồi trên thuyền máy trên lòng hồ thủy điện Na Hang, hướng về phía đất Bắc Mê (Hà Giang), thì tôi và "người rừng ung thư" Trần Ngọc Lâm, thợ săn Nông Văn Huy bắt đầu cuộc hành trình cuốc bộ xuyên qua những đại ngàn nghiến mọc trên những mỏm đá tai mèo sắc nhọn. Con đường mòn xuyên rừng thi thoảng mới có đoạn lộ nền đất, thì thấy dấu chân thú nhiều hơn dấu chân người. Rất nhiều vết báo gấm cào trên nền đất đánh dấu lãnh thổ đủ biết đại ngàn hoang sơ như thế nào. Cuốc bộ đến nhập nhoạng tối, lên đến đỉnh Giang Chí cao hơn 2.000m, nóc nhà của tỉnh Tuyên Quang, thì hiện ra mấy nóc nhà sàn. Trên đỉnh Giang Chí, có mấy mỏm núi và mỗi mỏm núi là một ngôi nhà. Dân cư thưa thớt, đất đai rộng mênh mông. Phía bên kia đỉnh Giang Chí là đất Hà Giang.
Nhà thầy cúng Lý Thức Tình ở mỏm núi nhô lên ngay dưới đỉnh Giang Chí mờ sương. Thầy cúng Lý Thức Tình 57 tuổi, dáng người nhỏ thó. Trước kia, ông vốn là công an viên, nhưng bản Giang Chí giải tán, hạ sơn, thì ông lại quay về công việc thầy cúng. Ánh sáng vàng vọt từ chiếc đèn dầu chỉ thấy mặt người lờ mờ. Khách lạ đến nhà, ông Tình bê ấm pha trà, nhưng cứ đi vòng quanh nhà, nhấp nha nhấp nhổm không chịu ngồi yên. Ông Trần Ngọc Lâm bảo, nhìn dáng đi, với cái kiểu đi lại quẩn quanh như thế, ắt bị bệnh gan nặng. Tò mò, tôi hỏi, thì ông Tình bảo ông bị bệnh gan nặng thật. Ông bảo, làm nghề thầy cúng, có mặt ở các buổi lễ trọng đại, nên không tránh được rượu bia. Vả lại, sống ở đỉnh Giang Chí, quanh năm giá lạnh, ít người, nên chỉ có rượu làm bạn, vì thế mà hỏng cả hai lá gan.
Thầy cúng Lý Thức Tình mở chiếc tủ cũ kỹ, lần giở những cuốn sách ố vàng, mối gặm nham nhở, rồi bắt đầu câu chuyện về tộc người Dao của mình. Ông bảo, gia phả ghi rõ, dòng họ nhà ông di cư từ Trung Quốc sang đất Hà Giang từ 300 năm trước. Cách đây 9 đời, khoảng 200 năm trước người Dao đặt chân lên đỉnh Giang Chí này. Cho đến bây giờ, đỉnh Giang Chí vẫn là vùng đất tận cùng của Tuyên Quang, nơi xa xôi, hoang rậm bậc nhất của tỉnh. Cả trăm năm sinh sống, từ vài người, đỉnh Giang Chí đã đông đúc, với 12 hộ dân cùng hơn trăm nhân khẩu. Năm 2004, chính quyền đã lên đây mở lớp học và có thầy cô giáo cắm bản. Tuy nhiên, đường sá quá xa xôi, lớp học chỉ lèo tèo 3-4 học sinh. Đường giao thông không thể mở lên được, điện cũng không thể kéo lên, nên bàn đi tính lại chính quyền đã di dân xuống tận huyện Hàm Yên. Mấy năm trước, toàn bộ dân cư đã được hạ sơn. Tuy nhiên, đã có 4 hộ quay về. Tôi hỏi: "Hàm Yên là vùng đất thấp, thủ phủ cam sành, rất dễ làm ăn, sinh cư, sao ông không ở đấy, mà quay lại chốn thâm sơn cùng cốc này?". Ông Thức bảo, ông đã chuyển con cái xuống đó ở, còn ông bà quay về đây ẩn náu. Sinh ra và lớn lên trên quả núi này, khí hậu mát mẻ, nên ông không quen với thời tiết nắng nóng dưới Hàm Yên. Tôi gặng hỏi thêm lý do, thì ông mới tiết lộ rằng, ông về quả núi này ở còn là để trông nom, thờ cúng "Thần Ong". Theo ông Thức, hàng năm, đến tháng 4, dân bản đều tổ chức cúng bái, thu hoạch ong và ăn mừng. Tổ ong thuộc sở hữu của cả bản Giang Chí, nhưng giờ dân bản chuyển đi cả rồi, chỉ còn 4 hộ thi thoảng đi về, thay nhau trông nom tổ ong mà thôi.
Bản thân thầy cúng Lý Thức Tình cũng không biết tổ ong có mặt trên đỉnh núi Giang Chí từ bao nhiêu năm trước. Các cụ đều kể lại rằng, "Thần Ong" đã ngự trên đỉnh núi này từ thời khai sơn lập địa, trước khi có con người trên trái đất. Bỏ qua những câu chuyện thần thoại, thì ông nội ông Tình, sinh năm 1910, kể rằng, từ lúc mới sinh ra đã thấy có những tổ ong trên vách núi và các cụ đều thờ cúng "Thần Ong" rất chu đáo. Việc thờ cúng "Thần Ong" được giao cho ông nội ông Tình, đến đời bố ông, và giờ thì đến đời ông Tình làm nhiệm vụ chăm sóc đời sống tinh thần cho cộng đồng Dao ở nơi hoang thẳm này. Cứ như vậy mà tính ra, thì ít nhất "Thần Ong" đã ngự trên đỉnh Giang Chí 100 năm rồi. Còn theo lời ông Tình, thì tổ tiên ông truyền miệng lại, lúc đặt chân đến đỉnh núi, cách nay 200 năm, đã thấy những tổ ong chi chít trên vách đá.
"Thần Ong" nổi giận
Theo lời các cụ kể lại, ngày đó, lúc chuyển đến, đói khát quá, lại mắc nhiều bệnh, nên một người trong họ đã trèo lên lấy mật ong. Khi trèo đến nơi, chưa lấy được tổ ong nào, thì bỗng một đám mây đen ào ào bay đến, cơn gió nổi lên, thổi bay người này xuống, chết tan xương nát thịt dưới chân núi. Từ trên vách núi, vang xuống một lời nói, rằng "Thần Ong" ngự trên quả núi này, không ai được phép tự tiện quấy phá. "Thần Ong" cũng báo rằng, nếu muốn lấy mật, thì phải cúng bái đàng hoàng, nếu "Thần Ong" cho phép, thì mới lấy được mật, còn "Thần Ong" từ chối, thì nhất định không được động vào, kẻo mất mạng như chơi. Từ bấy, người Dao ở bản Giang Chí cúng bái cẩn thận mỗi khi muốn khai thác ong.
Nghe thầy cúng Lý Thức Tình kể câu chuyện giông gió nổi lên thổi bay người lấy ong, tôi chợt nhớ đến những vụ chết người kỳ lạ trên hồ thủy điện Na Hang. Những ngày lênh đênh trên hồ, tôi được đám lái đò kể nhiều chuyện kỳ lạ về thứ gió, mà người ta gọi là gió hang. Thứ gió ấy như thể một cơn lốc đột ngột, khiến sóng hồ cồn lên, nhấn chìm thuyền. Hoặc, thuyền máy đang chạy, cơn gió khủng khiếp ấy bỗng bốc thuyền, nhấn chìm tất cả. Sau này tìm hiểu, mới biết, gió hang không phải là gió thổi ra từ hang đá, mà là những luồng khí bị những dãy núi đá vôi nén lại, rồi bung mạnh ở phía mặt hồ, khiến những chiếc thuyền đen đủi chạm phải lật úp, dẫn đến chết người. Có lẽ, chuyện gặp cơn gió mạnh quật chết người lấy ong có liên quan đến luồng gió gọi là gió hang, chứ không có gì thần bí. (Bổ sung: Anh Nông Văn Huy đã qua đời vì gió hang ở hồ này sau 1 năm dẫn tác giả đi xem tổ ong).
Quay trở lại câu chuyện về quần thể tổ ong linh thiêng, để tôi tin lời có chuyện "Thần Ong" vật người, thầy cúng Lý Thức Tình sai cậu con trai đi gọi thêm mấy người trong bản. Lát sau, anh Bàn Phúc Hiền, cư ngụ ở mỏm núi bên cạnh có mặt. Anh Hiền năm nay mới 48 tuổi, nhưng răng rụng gần hết, móm mém, trông như đã ngoài 60. Anh Hiền bảo rằng, trước kia, hang ong là tài sản chung của cả bản, nhưng giờ dân bản hạ sơn hết rồi, chỉ còn 4 hộ gia đình ở lại trông nom, nên thuộc sở hữu của 4 gia đình, trong đó có gia đình anh. Theo lời anh Hiền và ông Tình, cách nay 10 năm, anh Hoàng Văn Bông, ở xã Sinh Long (Na Hang) đã mất mạng thảm khốc vì dám xâm phạm "Thần Ong". Anh Bông là người Tày, sống ở vùng dưới, nhưng thường xuyên vào rừng săn thú. Anh Bông có tài bắt rắn siêu hạng. Chỉ cần biết quả núi nào có hổ chúa, Bông sẽ bắt bằng được. Đi rừng nhiều, thú dữ không sợ, nên anh Bông chẳng sợ gì ong. Anh vẫn thường xuyên lấy mật ong rừng về bán. Hồi đến đỉnh Giang Chí, biết trên vách núi có nhiều tổ ong, anh Bông đã quyết định lấy vài lít về dùng. Thấy anh Bông có ý định lấy ong ở đỉnh Giang Chí, nhiều người đã can ngăn, nhưng không ăn thua gì. Khi đó, trưởng bản Bàn Phúc Héng còn ở đây, đã ngăn cản, nhưng anh Bông nói càn, rằng núi đó là núi hoang, ong là của rừng, nên anh có quyền lấy, không ai can ngăn được anh. Nghĩ tổ ong còn nhiều, anh Bông chỉ lấy vài lít, nên mọi người cũng mặc kệ anh Bông. Để lấy được mật, anh Bông chuẩn bị dụng cụ đầy đủ, gồm quần áo dày, gang tay, mũi lưới bọc mặt. Toàn bộ thân thể đã bịt kín, anh Bông trèo lên đỉnh núi, buộc dây rừng bện to bằng bắp tay vào người, rồi tụt xuống vách đá. Anh Bông bẻ lấy một góc tổ ong, rồi trèo lên. Miếng tổ ong ấy cho khoảng 5 lít mật. Đàn ong khoái bị người lạ xâm phạm nổi điên, bu đen lấy anh Bông, nhưng không con nào đốt được vì anh Bông đã mặc đồ bảo hộ kín mít.
Chuyện anh Bông lấy mật ong khi chưa cúng, chưa hỏi ý kiến "Thần Ong", khiến mọi người trong bản đều hãi, nói anh này liều mạng, kiểu gì cũng gặp vận rủi. Y rằng, vài hôm sau, dân bản nghe tin báo lên, anh Hoàng Văn Bông đã chết thảm khốc trong một hang đá. Ở hang Phủng, thuộc bản Phiêng Que (xã Xuân Tiến, Lâm Bình), có thứ đất bazan kỳ lạ, chứa nhiều diêm sinh. Người dân trong vùng vẫn vào hang Phủng khai thác đất bazan về làm thuốc súng. Họ đào đất trong hang, đánh cho tơi, đựng vào những chiếc sọt đan bằng nứa, rồi đổ nước lên. Nước thấm vào sọt đất, chảy xuống dưới thành giọt. Nước chảy qua lớp đất được cô đặc lại sẽ cho ra thuốc nổ. Hôm đó, anh Bông và một người cùng bản đang đào đất trong hang, thì những tảng đá khổng lồ trên trần hang sập xuống, đè luôn lên người anh Bông, vít luôn cửa ngách. Người bạn cùng bản đào đất ở ngách khác, nên không hề hấn gì. Anh này về bản gọi người ứng cứu, tuy nhiên, mấy chục con người kéo đến hang Phủng mà không có cách nào lấy được xác anh Bông ra ngoài. Những tảng đá khổng lồ, nặng hàng chục tấn đã vít chặt cửa hang, nghiền nát thân thể anh Bông. Không lấy được xác, gia đình đành làm lễ cúng, rồi coi ngách hang Phủng ấy là nấm mồ chôn anh Bông.
Theo ông Lý Thức Tình, trước thời điểm anh Bông liều mạng khai thác tổ ong, rồi chết thảm khốc, thì một người Mông ở Hà Giang mò sang, ăn trộm tổ ong, cũng suýt mất mạng. Anh này nghe tin đỉnh Giang Chí có nhiều mật ong, đã mò đến khai thác. Anh này vác cây sào dài, tính chọc cho tổ ong rụng xuống. Tuy nhiên, điều kỳ lạ xảy ra, đó là anh này vừa trèo lên thang, còn cách tổ ong cả chục mét, thì bầy ong đã lao xuống tấn công, đốt cho mấy chục vết. Người dân bản Giang Chí phát hiện anh này bị ong tấn công, đã hái thuốc cho anh vừa đắp, vừa uống, rồi thầy cúng Lý Thức Tình phải mổ gà cúng ở núi mấy ngày anh người Mông kia mới tỉnh lại, thoát chết.
Hồi đầu năm 2013, anh chàng người Mông, ở Bắc Mê, tên là Vàng Seo Vần, cũng gặp hạn lớn khi vô tình xâm phạm "Thần Ong". Anh này lên núi Giang Chí khai thác củ ba mươi (củ cát cánh) để bán cho Trung Quốc làm thuốc. Anh này đã làm lò sấy ở dưới chân núi, nơi có quần thể tổ ong. Thấy khói bốc lên nghi ngút, dân bản tưởng có kẻ đốt lửa đuổi ong để trộm mật, nên chạy lên, mới biết Vàng Seo Vần đã nổi lửa sấy củ ba mươi cả tiếng đồng hồ. Lửa cháy lớn, khóc mùi mịt quyện lên vách đá, khiến đàn ong sợ hãi bỏ đi cả. Phải mất một năm sau, đàn ong mới quay về làm tổ. Điều kỳ lạ là, khi đàn ong bay đi, anh chàng Vàng Seo Vần ốm liệt giường chiếu, không đi rừng được nữa. Gia đình anh này đã mời cả chục thầy cúng, tốn kém không biết bao nhiêu mà kể, vẫn không khỏi bệnh. Gia đình đã khiêng anh xuống tận Hà Nội điều trị mà vẫn chẳng ăn thua. Thế nhưng, khi đàn ong quay về làm tổ vào đầu năm 2014, thì anh này tự nhiên hết bệnh. Sức khỏe hồi phục, Vàng Seo Vần lại vào rừng tìm củ ba mươi, nhưng không bao giờ Vần dám đến gần vách đá nơi có tổ ong, chứ đừng nói đến chuyện làm việc gì kinh động đến nơi ở của ong.
Lễ cúng "Thần Ong"
Câu chuyện về những tổ ong khổng lồ trên đỉnh Giang Chí mờ sương, được người Dao sống giữa đại ngàn hoang rậm quản lý, khai thác từ hàng trăm năm qua quả thực thú vị. Người dân trong vùng tin rằng, quần thể tổ ong trên vách đá đó được trông nom bởi "Thần Ong", nên ai cũng hãi hùng, không dám khai thác, thậm chí không dám bén mảng đến chân núi để ngó xem tổ ong thế nào. Người dân trên đỉnh Giang Chí cũng chỉ dám kéo đến vào ngày khai thác mật, khi thầy cúng đã hành lễ đúng thủ tục. Tôi đề xuất đi xem quần thể tổ ong trên vách núi, thầy cúng Lý Thức Tình đã phải dậy sớm, mổ gà, làm lễ trên bàn thờ. Ông mở chiếc tủ cũ kỹ, lấy ra cuốn sách cổ mối mọt cắn nham nhở, đã ố vàng và thực hiện bài cúng xin thần linh cho người lạ xem tổ ong. Cúng xong, ông gieo quẻ và nói các vị thần đã đồng ý.
Khi mặt trời ló dạng khỏi dãy núi, ánh nắng chan hòa khắp nơi, anh Bàn Phúc Hiền dẫn chúng tôi lên núi tìm "Thần Ong". Đỉnh Giang Chí gồm mấy mỏm núi nhấp nhô cao sêm sêm nhau. "Thần Ong" ngự ở mỏm núi có tên Cù Pham Ngàm, dịch ra tiếng phổ thông là núi Ba Chạc, bởi nó như 3 ngón tay nhô lên. Đó là vách đá dựng đứng như tường thành. Dưới chân Cù Pham Ngàm là miệng hang lớn, sâu hoắm, tối tăm. Anh Hiền bảo rằng, xưa kia, hang đá có hàng vạn con dơi, là nguồn thức ăn tưởng như vô tận của dân bản. Cả trăm năm qua, người dân khai thác phân dơi trong hang để làm phân bón, đến giờ vẫn chưa hết. Lượng phân dơi tích tụ ở hang đá này có lẽ đã cả triệu năm rồi. Tuy nhiên, cái miệng con người thì tham lam vô độ, nên loài dơi ở hang đá đã bị ăn sạch. Trước đây, chỉ cần chăng mảnh lưới bằng cái chiếu ở miệng hang, thì gỡ dơi không kịp. Chỉ cần hai người, bắt một lúc thì được bao tải dơi. Nhiều người tham lam, bắt dơi đem thui vàng, mổ bụng rồi vác xuống núi bán với giá 150 ngàn đồng/kg, khiến nguồn dơi cạn kiệt. Theo anh Hiền, nếu dân bản cứ săn bắt để dùng, thì nguồn dơi thoải mái, tuy nhiên khai thác bán thì dơi sẽ cạn kiệt, hoặc chúng sẽ bỏ đi hết. Giờ trong hang vẫn còn dơi, nhưng rất ít. Các gia đình ở đây nhất định không bắt dơi nữa, hy vọng chúng về ở, để có nguồn phân tốt, giàu phốt pho bón cho cây trồng.
Từ dưới miệng hang, là hệ thống thang cao chót vót, kéo lên đến tận vách đá nơi có những tổ ong khổng lồ treo lủng liểng. Chiếc thang được ghép lại bởi những cây luồng to và nối với nhau. Thang ngang được buộc chặt bởi dây rừng. Theo anh Hiền, cứ đến tháng 4 hàng năm, chọn được ngày đẹp, thì dân bản lại làm thang bắc từ chân núi lên đến gần đỉnh, chỉ còn cách tổ ong khoảng 10m để khai thác mật ong. Tuy nhiên, trước khi khai thác mật, dân bản phải tổ chức lễ cúng rất linh đình. Người chủ trì lễ cúng "Thần Ong" là thầy cúng Lý Thức Tình.
Theo thầy cúng Tình, lễ vật gồm có 1 con gà, thẻ hương, nậm rượu. Lễ vật được bày xuống mặt đất, ngay chân núi. Thầy cúng phải xin thần hoàng (gồm thần tổ tiên, thần núi, thần rừng, thần trời, thần thổ địa) và "Thần Ong". Thầy cúng Tình thắp nhang, rồi nói lớn: "Xín cung xín mau phàn chủ xì…", đại để "Mời các cụ về uống rượu, cho các con xin lấy tổ ong…". Lễ cúng kéo dài gần 2 tiếng đồng hồ. Bài cúng được ghi trong cuốn sách cổ. Cúng xong thì rót rượu mời thần linh, đốt tiền giấy và gieo quẻ (quẻ của thầy cúng người Dao được làm bằng miếng gỗ). Theo quy định, thầy cúng chỉ được gieo quẻ đúng 2 lần. Nếu các vị thần đồng ý, thì mới được khai thác tổ ong, còn thần không đồng ý thì phải chờ đến sang năm. Tuy nhiên, theo thầy cúng Tình, thì từ xưa đến nay, chưa từng có chuyện gieo quẻ không được. Khi đã làm lễ cúng các vị thần tử tế, thì các thần đều đồng ý cho khai thác ong.
Khi gieo quẻ thành công, thì mọi người sẽ trải bạt, rồi những lớp nilon dưới chân núi. Phía trên vách núi cũng được trải những lớp bạt kèm nilon để hứng tổ ong. Một người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, có uy tín sẽ được giao nhiệm vụ trèo lên thang chọc tổ ong. Người này sẽ cầm chiếc sào dài 12m, đứng trên đỉnh thang và chọc từng tổ ong. Những tổ ong bị chọc sẽ vỡ, rụng xuống. Tổ ong sẽ mắc lại ở những lớp bạt chăng chi chít nhiều lớp từ dưới chân núi lên đến đỉnh. Nếu tổ ong rơi, va đập, vỡ tung tóe, không trúng lớp bạt này, thì sẽ trúng lớp bạt khác. Có tổ ong vỡ miếng to quá, khi rơi xuống sức nặng trăm kg làm thủng bạt, đứt bạt, thì sẽ lại có lớp bạt ở dưới đỡ. Nếu bung hết bạt, tổ ong rơi xuống đất, thì đã có lớp bạt cuối cùng chăng dưới mặt đất hứng trọn.
Điều kỳ lạ nhất, là trong cuộc khai thác ong, cả bản cùng tham gia, có mặt, đông vui như hội, nhưng bọn ong trên vách núi tuyệt nhiên không nổi giận tấn công người. Ngay cả người được phân công nhiệm vụ khai thác ong, cũng không cần thứ gì bảo vệ, cứ thoải mái chọc tổ ong, thậm chí, nếu có tiến đến gần tổ ong dùng tay trần thu hái, ong cũng không đốt. Ong khoái là loài ong rất lớn, to bằng ngón tay, rất hung dữ, nọc độc chục con ong có thể giết người, thế nhưng, hàng vạn con ong để cho con người hồn nhiên khai thác mật, phá tổ, cũng là điều kỳ lạ, khó lý giải. Theo thầy cúng Lý Thức Tình, khi đã tổ chức cúng bái và được "Thần Ong" đồng ý, thì có thể khai thác thoải mái, mà không bị ong tấn công. Nếu không cúng, hoặc có cúng mà gieo quẻ không thành công, thì không ai dám động vào tổ ong, bởi nếu hàng vạn con ong không tấn công, thì "Thần Ong" cũng sẽ vật chết người.
Nghe chuyện lấy mật không cần thiết bị bảo vệ, mà ong không tấn công, tôi quả thực khó tin. Anh Nông Văn Huy bảo: "Tôi là thợ săn, mấy chục năm sống trong rừng, lấy được lượng mật ong phải tính bằng tấn, tôi khẳng định rằng, những con ong ở núi Giang Chí này chính là ong khoái, là loài ong hung dữ, nọc độc rất mạnh. Ở bản tôi, nhiều người suýt mất mạng vì loài ong này. Có người chọc tổ ong, bị ong đuổi, nhảy xuống ao, mà chúng còn bu đen trên mặt nước, chờ ngoi lên để đốt. Mọi người phải mang chăn ra chụp kín, rồi đốt lửa xua ong, anh ta mới thoát chết. Dân trong vùng không ai dám lấy mật ở những tổ ong này đâu, chỉ có người Dao trên đỉnh Giang Chí này dám lấy thôi. Nếu không được "Thần Ong" cho phép, thì nếu không bị ong đốt, cũng bị "Thần Ong" vật chết lúc nào không hay".
Theo anh Bàn Phúc Hiền, để khai thác xong quần thể tổ ong trên vách núi Cù Pham Ngàm, phải mất trọn một ngày. Đứng dưới chân núi nhìn lên, trông tổ ong chỉ cỡ cái mâm, hình elip, thế nhưng, anh Hiền cho biết, trèo đến gần, mới thấy nó to bằng cái nia, thậm chí có những năm tổ ong to bằng cái chiếu. Tổ ong trung bình trên vách đá này cũng phải có đường kính cỡ 1m đến 1,5m. Mỗi tổ ong lớn cho khoảng 3 gánh mật, tính ra chừng 6 xô, tương đương 70 lít mật ong. Tổ nhỏ cũng cho tới 10 lít mật. Mỗi đợt khai thác, dân bản Giang Chí thu được hàng trăm lít mật ong, con số đó chia đều cho cả bản, mỗi gia đình vẫn có hàng chục lít mật để dùng. Tuy nhiên, lượng mật ong quá nhiều, dùng không xuể, nên họ gùi xuống trung tâm huyện bán trong những ngày có phiên chợ. Mỗi lít mật ong rừng có giá vài trăm ngàn đồng, nên cư dân trên đỉnh Giang Chí có được một khoản kha khá. Họ tin rằng "Thần Ong" đã mang lại cho họ cuộc sống no ấm, nên không bao giờ họ khai thác theo kiểu tận diệt. Mỗi lần khai thác, họ thường chỉ chọc rụng 3/4 tổ ong và luôn để lại vài tổ nguyên vẹn, để ong có nơi trú ngụ và tiếp tục tìm về xây tổ, làm mật.
Tôi đứng dưới chân núi, ngước mắt mỏi cổ nhìn lên vách đá, đếm được tới 12 tổ ong khổng lồ. Với số lượng từng ấy tổ ong, thì có lẽ năm nay 4 hộ dân còn lại trên đỉnh Giang Chí sẽ thu được vài tạ mật ong, một con số khổng lồ. Đỉnh Giang Chí hiện chỉ còn 4 hộ gia đình sinh sống, nên không có trách nhiệm phải chia chác cho ai. Tuy nhiên, ngày khai thác mật ong, họ vẫn liên lạc gọi những gia đình đã hạ sơn ra Hàm Yên, cách đỉnh Giang Chí 150km về tham gia nghi lễ thu hoạch mật. Sau cuộc khai thác mật, các hộ dân sẽ tổ chức ăn uống no say. Nếu gia đình nào không về được, thì vẫn được các hộ dân để dành cho một ít, khi nào về thì biếu. Tiếc rằng, hôm tôi kỳ công cuốc bộ lên đỉnh Giang Chí, không phải ngày đẹp, nên các hộ gia đình chưa tiến hành khai thác ong, mặc dù hệ thống thang hoành tráng đã dựng xong.
PHẠM DƯƠNG NGỌC
Ảnh: Tác giả diễn cảnh trèo thang và 2 tạ mật rừng
rượu vang Ý nhập khẩu 在 Mẹ Nấm Youtube 的精選貼文
TIN QUỐC TẾ
1. Các chuyên gia y tế Mỹ phản ứng khi FDA tuyên bố sẵn sàng cấp phép lưu hành cho vaccine chưa qua kiểm nghiệm lâm sàng.
2. Tổng thống Belarus thảo luận kế hoạch tổ chức trưng cầu dân ý về cải cách hiến pháp và bác bỏ lời kêu gọi khôi phục hiến pháp cũ của phe đối lập.
3. Litva, Latvia và Estonia công bố lệnh trừng phạt đi lại đối với khoảng 30 quan chức Belarus.
4. Tổng thống Lebanon bổ nhiệm đại sứ tại Đức Mustapha Adib làm tân thủ tướng
5. Lục quân Ấn Độ cáo buộc lính Trung cộng định vượt biên
6. Tập đoàn Kiến thiết Giao thông Trung Quốc nói việc Mỹ trừng phạt các công ty liên quan xây đảo ở Biển Đông không ảnh hưởng tới hoạt động của công ty.
7. Huawei tuyên bố sẽ chuyển hướng đầu tư sang Nga sau lệnh trừng phạt của Mỹ.
8. Ngoại trưởng Trung cộng cảnh báo Chủ tịch Thượng viện Czech Vystrcil "trả giá" vì chuyến thăm chính thức Đài Loan
9. Ngoại trưởng Czech cho biết sẽ triệu đại sứ Trung cộng
10. Trung cộng tuyên bố điều tra chống trợ cấp với rượu vang nhập khẩu Australia,
11. Quốc hội Australia sẽ mở điều tra về cáo buộc can thiệp từ nước ngoài tại các trường đại học công lập.
12. Thái Lan hoãn chi gần 724 triệu USD mua hai tàu ngầm Trung cộng
TIN VIỆT NAM
1. Trung tá Công an tỉnh Quảng Ninh nghi nhảy cầu Bãi Cháy (TP.Hạ Long, Quảng Ninh) tự tử.
2. Tòa án Tp.HCM trả hồ sơ vụ Phó chánh án Nguyễn Hải Nam xâm phạm chỗ ở
3. 20 ngư dân và 2 tàu cá Cà Mau bị Hải quân Thái Lan bắt giữ.
4. Từ ngày 15/10 cho phép phạt từ 500.000 đến một triệu đồng với hành vi bán, cung cấp rượu, bia cho người dưới 18 tuổi.
5. Sài Gòn phá kho hàng lớn nghi nhập lậu từ Trung Quốc
6. Bệnh viện Bạch Mau đề nghị mua hai lọ thuốc giải độc giá 16.000 USD từ Thái Lan, để điều trị hai vợ chồng ngộ độc sau khi ăn pate Minh Chay.